Tóm lược: Các nhà nghiên cứu đã tìm ra một gene cho phép loài giun tròn phát quang mang gene đột biến có thể di truyền các biến đổi qua 14 thế hệ.
ÁNH SÁNG TỪ NHỮNG LOÀI GIUN TRÒN BÉ NHỎ
Tính kế thừa là khái niệm cơ bản nhất và khá quen thuộc trong lĩnh vực di truyền học. Nếu cả cha mẹ ruột đều có mái tóc nâu thì bạn sẽ có khả năng sở hữu mái tóc nâu khá cao. Nếu trong số cha, mẹ, ông, bà hay một trong số dì của bạn mắc một bệnh di truyền thì nguy cơ mắc căn bệnh đó ở bạn sẽ tăng lên đáng kể. Ở một mức độ nào đó, tính kế thừa về mặt di truyền cho biết gene của chúng ta được biểu hiện ra sao về vẻ bề ngoài, tuổi tác và cuộc sống. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học thuộc Tổ chức Sinh học Phân tử Châu Âu (EMBO) ở Tây Ban Nha đã chỉ ra rằng “trí nhớ sinh học” có thể được truyền qua 14 thế hệ nhờ vào sự phát hiện một gene đặc biệt giúp duy trì các biến đổi ở một số loài giun tròn mang gene đột biến.
Các loài giun này được biến đổi gene để mang một gene tạo khả năng phát huỳnh quang dưới ánh sáng cực tím. Và bằng cách thay đổi nhiệt độ, họ nhận thấy khả năng phát quang của các loài này nhiều hơn khi chúng được nuôi trong môi trường ấm áp. Tuy nhiên, khi di chuyển môi trường sống từ dưới ánh mặt trời sang môi trường mát mẻ hơn thì những con giun này vẫn giữ được khả năng phát ánh sáng rực rỡ. Điều này gợi lên một "trí nhớ môi trường" về các điều kiện sống trước đây của chúng. Và đáng ngạc nhiên khi chúng vẫn duy trì được khả năng phát sáng trong suốt 14 thế hệ bất kể điều kiện nhiệt độ thay đổi.
via Centre for Genomic Regulation Press Release
Nghiên cứu này vừa chỉ ra khả năng không tưởng của “trí nhớ di truyền” và vừa cho thấy tác động của môi trường đến cuộc sống của chúng ta. Trong khi di truyền định hướng cho cơ thể trong suốt cuộc đời của chúng ta thì môi trường sống cũng có thể gây ra các tác động quan trọng và kéo dài
TƯƠNG LAI CỦA “TRÍ NHỚ DI TRUYỀN”
Từ những phát hiện trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn cách thức các gene được di truyền và chịu ảnh hưởng bởi môi trường trên tất cả các loài, bao gồm cả loài người. Điển hình là việc tìm ra phương pháp dự đoán tốt hơn cho những người có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer dựa trên các nghiên cứu về di tr. uyền học. Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Tel Aviv đã thúc đẩy việc nghiên cứu về “trí nhớ di truyền” hơn nữa bằng những nghiên cứu khoa học mới nhất với mục tiêu chính là tìm ra cơ chế cho phép sự ảnh hưởng của môi trường sống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Việc chúng ta nâng cao kiến thức về “trí nhớ di truyền” và những cơ chế cho phép các đặc tính của một thế hệ được truyền sang thế hệ tiếp theo sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với sức khoẻ con người và động vật. Và khi biết rằng các đặc điểm được tạo hình nhờ vào tổ tiên, sự di truyền và môi trường sống đã tác động đến chúng ta nhiều như thế nào, chúng ta sẽ trở nên hoàn thiện hơn. Cụ thể, chúng ta có thể ngăn ngừa và chữa trị các bệnh di truyền nguy hiểm có tỉ lệ tử vong cao mỗi năm dựa vào cách thức truyền bệnh giữa các thế hệ.
Huỳnh Thanh Thảo
Nguồn: ScienceAlert, Futurism.
Tóm tắt: Các nhà nghiên cứu tin rằng aspirin có thể ngăn chặn các khối u ung thư lan truyền khắp cơ thể. Nhưng tiếc rằng, aspirin có t...
Tóm tắt:
Các nhà nghiên cứu tin rằng aspirin có thể ngăn chặn các khối u ung thư lan truyền khắp cơ thể. Nhưng tiếc rằng, aspirin có thể gây ra những phản ứng phụ nghiêm trọng ở một số bệnh nhân và hiện tại không có cách nào để xác định được những nguyên nhân gây nên phản ứng phụ ấy.
Một loại vũ khí mới
Giữa những phương pháp như tái tạo tế bào, vắc-xin tân tiến hơn và liệu pháp tinh trùng, đó là kho vũ khí của chúng ta trong cuộc chiến chống lại căn bệnh ung thư nhưng nó vẫn chưa đủ mạnh mẽ và đa dạng. Tuy nhiên, một trong những vũ khí mới nhất đã xuất hiện trong tủ thuốc của bạn.
Aspirin từ lâu đã được coi là một loại thuốc thần kỳ, có thể làm mọi thứ từ điều trị nhức đầu đến ngăn chặn cơn đau tim. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn luôn tin rằng có thể điều trị ngăn ngừa các tế bào ung thư lan truyền sau khi khối u hình thành trong cơ thể người.
Khi các tế bào ung thư lan ra, các tế bào của nó sẽ đi qua dòng máu tới những vị trí mới, nơi chúng sẽ ổn định và phát triển, tất cả quá trình đó điều không bị hệ miễn dịch phát hiện. Trong quá trình di chuyển này, tế bào ung thư vô tình được các tiểu cầu trong máu giúp đỡ từ việc di chuyển đến làm những tấm chắng như áo choàng giúp tế bào ung thư nhận được dinh dưỡng và oxy dẫn đến tình trạng của bệnh nhân ngày một tệ hơn.
Trong các thử nghiệm với chuột, Elisabeth Battinelli, nhà nghiên cứu huyết học tại Brigham và Bệnh viện phụ nữ ở Boston, đã nhận thấy rằng aspirin sẽ ngăn ngừa các tiểu cầu trong máu giúp đỡ tế bào ung thư trong quá trình di chuyển đến vị trí mới, từ đó sẽ giảm thiểu được khả năng lây lan của tế bào ung thư.
Không dành cho tất cả mọi người
Mỗi năm, có 1,6 triệu người bị mắc bệnh ung thư riêng ở Hoa Kỳ chiếm tỷ lệ gần 600.000 người chết do mắc bệnh ung thư. Thật không may, aspirin không thể giúp hết được cho mọi người, trên thực tế bất kỳ điều gì cũng có rủi ro riêng và loại thuốc này cũng vậy, nó mang theo những phản ứng phụ làm ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng như làm họ bị mất máu.
Ngay bây giờ, mọi thứ sẽ được tiết lộ, rằng ai sẽ là người được hưởng những lợi ít từ thuốc và ai sẽ bị những phản ứng phụ
Andrew Chan, một nhà dịch tễ ở Trường Y khoa Harvard tại Mỹ, cho biết: “Đó là một thách thức trong phát triển một xét nghiệm phân tử duy nhất để phát hiện ai sẽ bị phản ứng phụ với thuốc vì aspirin không hoạt động theo một cách duy nhất”.
Các nhà nghiên cứu đã tìm kiến các loại gen liên quan đến việc aspirin tác động đến tiểu cầu trong máu và hy vọng sẽ tiến xa hơn về việc liệu aspirin chỉ có tác dụng tích cực cho một số người hay không. Cho đến lúc đó, các nghiên cứu ở diện rộng hơn, đa dạng hơn sẽ cung cấp nhưng cái nhìn sâu hơn về khả năng chóng lại ung thư của loại thuốc thông thường nhưng phi thường này.
Huyền Trang
Theo từ Futurism
Tóm lược: Các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu các phương pháp điều chỉnh biểu hiện gene, chống lại tầm hiểm hoạ đe doạ từ ung t...
Tóm lược: Các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu các phương pháp điều chỉnh biểu hiện gene, chống lại tầm hiểm hoạ đe doạ từ ung thư. Việc này có thể dẫn tới tính cá nhân hoá cao, xét trên cấp độ di truyền và cách điều trị ung thư. Những phương pháp như vậy có tiềm năng ngăn chặn sự phản kháng của các tế bào ung thư đối với thuốc trị liệu.
GIẢI MÃ CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
Sự hiểu biết về cấp độ phân tử trong DNA của chúng ta là vấn đề hoàn toàn khả thi với nền khoa học hiện nay, lĩnh vực gọi này là hệ gen cá thể . Các phương pháp tiếp cận như vậy có thể cho chúng ta phát hiện ung thư do những thay đổi gây ra trong gen. Các ví dụ nổi tiếng điển hình là gene gây ung thư hắc tố BRAF kinase, gene gây ung thư vú BRCA và kháng nguyên tuyến tiền liệt đặc hiệu PSA.
Nhưng có nhiều điều để bàn về ung thư và các bệnh khác hơn là chỉ về bộ genes của chúng ta. Ngoài mã DNA, còn có một lớp ẩn kiểm soát một số hoạt động gene - nhưng không hề thay đổi bản thân DNA. Lĩnh vực này được gọi là biểu sinh thể, nghiên cứu về cách thức các gen được điều chỉnh như thế nào để biểu hiện di truyền, mặc dù chúng dựa vào thông tin di truyền giống nhau. Một gene vẫn là một gene, nhưng nó sẽ có những phản ứng khác nhau với nhiều điều kiện của môi trường hóa học xung quanh.
Lấy ví dụ,có bao giờ bạn nghĩ tại sao những cặp song sinh giống hệt nhau lại khác nhau? hoặc là làm sao lối sống của ông bà ta có thể ảnh hưởng đến cuộc sống chúng ta ngày nay? Một cái gì đó ngoài cả DNA đang nắm nhiệm vụ này, đó là 'ngoại di truyền' (epigenetics) (hiện tượng biến đổi biểu hiện gene mà không do tác động của sự thay đổi hóa học của chuỗi DNA trong bộ gene).
Lớp ẩn chịu trách nhiệm trong việc tinh chỉnh bên cạnh DNA,được gọi là cơ chế điều hoà epigenomic (epigenomic regulation). Epigenomics là lĩnh vực định lượng các dấu ấn biểu sinh ngoại di truyền trên toàn bộ hệ gen, do đó tức thời nắm bắt được những hình ảnh về trạng thái đó trong cơ thể chúng ta.
Gần đây, các phòng thí nghiệm về hệ thống sinh học và chuyển hóa ung thư tại UC Merced vừa công bố những khám phá mới về một yếu tố biểu sinh ngoại di truyền được gọi là "Jumonji". Yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến toàn bộ mạng lưới vận hành của gen ung thư; nó thực sự làm chủ toàn bộ vai trò của một gen ung thư, gây ra sự tăng sinh không kiểm soát được của tế bào.
BIỂU SINH NGOẠI DI TRUYỀN NẮM BẮT NHỮNG KIỂM SOÁT TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA GENE
Đã có những bác sĩ, những người có khả năng chẩn đoán bệnh, trên một mức độ nào đó, sử dụng các xét nghiệm di truyền học cá nhân nhằm kết hợp loại hình di truyền đặc trưng vào các quyết định thực nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, bộ gen của chúng ta ẩn chứa nhiều thứ hơn những gì các phép thử đó có thể phát hiện.
Biểu sinh ngoại di truyền giải thích rõ cho những thay đổi hóa học ảnh hưởng tới các biểu hiện "on" hoặc "off" của gene. Điều quan trọng ở đây là những thay đổi hoá học này không làm thay đổi trình tự chuỗi DNA. Ngoài ra, các tế bào sử dụng sự vận hành của epigenomic để kiểm soát những hoạt động của gene. Nếu các phản ứng hóa học diễn ra đúng nơi, những sản phẩm gene tương ứng sẽ biểu hiện vào đúng thời điểm thích hợp.
Các yếu tố môi trường như chế độ dinh dưỡng, khói thuốc lá cũng như hormone của chúng ta đều tác động mạnh mẽ đến biểu sinh ngoại di truyền và ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của gene.
Trong một số bệnh như ung thư, các chất điều tiết epigenomic như Jumonji thường hoạt động sai nhịp, khiến chúng gây ảnh hưởng không tốt lên hoạt động của gene. Một điều có thể xảy ra là chúng không đưa ra những thay đổi hóa học đúng lên các gen đích, những gene phải dựa vào nhiều yếu tố khác để biểu hiện gene "on" hay "off". Điều này dẫn đến sự thay đổi trong quá trình trao đổi chất, thúc đẩy sự tăng sinh không giới hạn của tế bào. Một khi các tế bào đã phân chia không giới hạn, khối u sẽ hình thành.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy sự xuất hiện quá nhiều của Jumonji trong các tế bào ung thư, chúng thúc đẩy sự phân chia không kiểm soát của tế bào, dẫn đến sự sinh trưởng không ngăn cản được của các khối u. Jumonji nắm vai trò là một chất biểu sinh ngoại di truyền chuyên điều chỉnh biểu hiện các gene ung thư.
Thêm vào đó, Jumonji còn hợp tác với các cơ quan điều tiết phụ thuộc hóc môn, tham gia vào những loại ung thư kháng trị liệu (treatment-resistant cancers).
Nhà sinh học hệ thống giúp chúng ta hiểu được làm thế nào để chống chọi và vượt qua những hiện tượng kháng này. Sinh học hệ thống mở ra những khả năng nhằm giải thích các tín hiệu điều chỉnh và các vi mạch chi phối tế bào. Nếu chúng ta có thể hiểu được những tín hiệu này, những loại thuốc nhằm phá vỡ những đoạn mạch không mong muốn để vượt qua hiện tượng 'kháng thuốc' có thể được thiết kế và đưa vào ứng dụng.
HƯỚNG TỚI CÁ NHÂN HOÁ NHỮNG BIỂU SINH NGOẠI DI TRUYỀN (PERSONALIZED EPIGENOMICS)
Epigenomics rất có triển vọng cho việc điều trị ung thư, nhưng vẫn còn nhiều nghi vấn chúng ta cần phải trả lời. Epigenome ngoại di truyền của người khoẻ mạnh sẽ như thế nào? Và epigenome sẽ thay đổi như thế nào khi chúng ta ngày càng già đi? Epigenome ngoại di truyền của người bệnh sẽ khác biệt như thế nào so với người bình thường? Trong tương lai, những câu hỏi quan trọng này sẽ được giải quyết bằng phương pháp cá nhân hoá biểu sinh ngoại di truyền, cố gắng khai thác các dữ liệu từ một bức tranh toàn diện về epigenome của con người.
Biểu sinh ngoại di truyền của chúng ta rất linh hoạt. Các chất điều hòa epigenomic không ngừng hoạt động, bao gồm Jumonji, loại bỏ hoặc thêm vào các dấu hiệu hoá học cho phép đọc các gene trong thời gian ngắn đồng thời ngăn chặn nó trong phút tiếp theo.
Có quá sớm không để khách hàng suy nghĩ về việc cá nhân hoá các xét nghiệm ? Những thông tin đó có còn quá bí ẩn hay quá không đáng tin cậy để đưa ra kết luận cuối cùng?
Các xét nghiệm cá nhân trên gene cho bệnh ung thư đã tồn tại. Diễn viên Hollywood Ben Stiller tuyên bố một “xét nghiệm di truyền đơn giản” phát hiện nồng độ cao bất thường của “các kháng nguyên tuyến tiền liệt” đã cứu lấy mạng sống của anh.
Nồng độ cao bất thường của các kháng nguyên tiền liệt tuyến đặc hiệu xuất hiện trong máu có thể biểu thị rằng người đó bị ung thư tuyến tiền liệt, nhưng không phải luôn luôn là như vậy. Nồng độ cao bất thường của các kháng nguyên tiền liệt tuyến đặc hiệu xuất hiện trong máu có thể biểu thị rằng người đó bị ung thư tuyến tiền liệt, nhưng không phải luôn luôn là như vậy.Đó là lý do tại sao thử nghiệm này không được FDA chấp thuận. Và test xét nghiệm này không xem xét đến các nhân tố ngoại di truyền.
Minh hoạ nghệ thuật biểu hiện dấu tay mang yếu tố điều tiết ngoại di truyền của một người,vượt qua sự thay đổi của DNA. Trong khuôn viên trung tâm nghiên cứu với bức tượng mang tên 'Những sự khởi đầu mới', tượng trưng cho hy vọng về những hướng điều trị khả thi trong tương lai.
HỨA HẸN VỀ NHỮNG LOẠI THUỐC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ CHỐNG LẠI YÊU TỐ NGOẠI DI TRUYỀN
Các loại thuốc điều trị trúng đích 'ngoại di truyền' mở ra tiềm năng mới và những phương hướng khả thi cho các nghiên cứu lâm sàng sau này. Các câu hỏi lâm sàng hiện nay được đặt ra liên quan đến nghiên cứu biểu sinh ngoại di truyền mà các phân tử thuốc có thể biến đổi các biểu hiện ngoại di truyền và giết chết tế bào ung thư. Nó mở ra một vấn đề nếu như các yếu tố ngoại di truyền này mang lại ảnh hưởng tốt hay xấu lên tế bào ung thư. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng epigenetics thậm chí có thể hỗ trợ các tế bào ung thư thao túng hệ thống miễn dịch của chúng ta và lẩn tránh sự tiếp cận của các loại thuốc điều trị trúng đích.
Theo những hiểu biết gần đây về gene, các nhà nghiên cứu so sánh sự cân bằng tinh vi này với sự cân bằng Âm/Dương, những tác động lực bổ trợ lẫn nhau nhằm giữ cho cả hai bên đều nằm trong tầm kiểm soát. Nếu có một lực vượt qua cả hệ thống, nó sẽ mất đi trạng thái cân bằng. Đối với các tế bào, điều này sẽ dẫn đến sự tăng sinh không giới hạn, ung thư hoặc thậm chí là tử vong. Không nghi ngờ gì nữa, khi chúng ta có nhận thức rõ ràng,hiểu sâu hơn hơn về cơ chế ngoại di truyền, chúng ta có thể thiết kế các loại thuốc có khả năng phản ứng lại với các yếu tố này.
Điều này đang bắt đầu xảy ra với một số bệnh ung thư. Những đột phá gần đây trong nghiên cứu u ác tính đã xác định một đột biến di truyền từ một yếu tố ngoại di truyền. Ung thư kháng trị liệu là một trở ngại khá đau đầu hiện nay. Tuy nhiên,thuốc ngoại di truyền epigenetic, riêng biệt hoặc kết hợp với các thuốc khác, có thể là một liệu pháp thay thế khả thi.
Thuốc 'ngoại di truyền' epigenetic sử dụng trong những nghiên cứu ở phòng thí nghiệm đã ngăn chặn khả năng 'lẩn trốn' của các tế bào ung thư với hệ thống miễn dịch, làm tổn thương các khối u di căn. Đối với bệnh nhân ung thư đã kích hoạt biểu sinh 'ngoại di truyền', đây là một liệu pháp điều trị ung thư hứa hẹn nhiều hi vọng trong tương lai - ứng dụng các loại thuốc mang yếu tố biểu sinh ngoại di truyền.
Fabian V. Filipp, Trợ lý Giáo sư về Sinh học Hệ thống và Chuyển hoá Ung thư, Đại học California, Merced
Như Nguyện
Theo The Conversation và Futurism
TÓM TẮT: Các chủng vi khuẩn kháng các loại thuốc đang làm cho thuốc kháng sinh trở nên vô dụng với các bệnh nhiễm trùng, nhưng một giả...
TÓM TẮT: Các chủng vi khuẩn kháng các loại thuốc đang làm cho thuốc kháng sinh trở nên vô dụng với các bệnh nhiễm trùng, nhưng một giải pháp không ngờ đến có thể tìm thấy trong si-rô cây phong. Các hợp chất tự nhiên trong si-rô chiết xuất từ cây phong có thể làm giảm lượng kháng sinh cần thiết để điều trị bệnh nhiễm trùng khoảng 90 phần trăm.
ĐƯỜNG CHO SIÊU VI KHUẨN
Đối phó với bệnh tật chưa bao giờ là điều dễ dàng trong lịch sử loài người chúng ta. Bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy không được khỏe, chúng ta sẽ tìm điều làm chúng ta cảm thấy không ổn và sẽ uống bất kì thuốc kê toa nào để làm triệu chứng biến mất. Điều này dường như chỉ là tạm thời, cho đến khi chúng ta nghĩ về khả năng thích nghi của các vi khuẩn gây bệnh nhiễm trùng. Chọn lọc tự nhiên có thể là một trò chơi nguy hiểm.
Các loài thường được đưa vào thử nghiệm tiến hoá: diệt vong - hoặc tồn tại và thích ứng. Trong trường hợp vi khuẩn gây bệnh, gần đây là kết quả không như mong muốn của việc chúng ta lạm dụng kháng sinh. Hầu hết các chuyên gia về sức khoẻ đều lo sợ rằng các loại vi khuẩn kháng thuốc, hoặc "siêu vi khuẩn", có thể là cuộc khủng hoảng sức khoẻ toàn cầu tiếp theo của chúng ta.
Với tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh (AMR) của các loại vi khuẩn hiện nay, các chuyên gia dự đoán rằng, cuộc chiến với các bệnh lao, HIV và sốt rét sẽ chỉ diễn biến phức tạp hơn. Mặc dù sự kháng thuốc đang đe doạ và làm cho các loại thuốc cứu sống trở nên vô ích, ba nhà nghiên cứu Canada có thể đã phát hiện ra câu trả lời cho loại siêu vi khuẩn - và đó là si-rô cây phong.
Nathalie Tufenkji và nhóm nghiên cứu của họ đã trình bày nghiên cứu của họ tại Hội nghị Quốc gia lần thứ 253 và Triển lãm của Hiệp hội Hoá học Hoa Kỳ, nêu ra các gia vị có trong bữa sáng ưa thích của chúng ta có thể giúp tăng cường hiệu quả của thuốc kháng sinh như thế nào.
THUỐC KHÁNG SINH TRONG SI-RÔ
Tufenkji tin rằng giải pháp của chúng ta đối với AMR nằm ở các hợp chất phenolic, là những phân tử tự nhiên thường có các hoạt động sinh học. Một số hợp chất phenolic có trong si-rô cây phong được chuẩn bị từ nhựa cây phong được cô đặc, và các hợp chất này có thể chiết xuất. Được mệnh danh là si-rô chiết xuất từ cây phong giàu hợp chất phenolic, hợp chất này chỉ chống lại vi khuẩn khi kết hợp với các thuốc kháng sinh hiện có, tạo ra một sức mạnh tổng hợp có thể làm giảm liều lượng thuốc kháng sinh cần để điều trị bệnh nhiễm trùng bằng con số đáng kinh ngạc 90 phần trăm.
Sự tiếp cận hợp chất đã thực hiện trên nhiều dòng vi khuẩn gây hại như: E.coli, vi khuẩn gây ra các bệnh đường ruột; Proteus mirabilis, vi khuẩn gây viêm đường tiết niệu; và Pseudomonas aeruginosa, một nguyên nhân phổ biến làm bệnh viện bị nhiễm trùng.
Sức thuyết phục của si-rô cây phong có nguồn gốc từ hỗn hợp dường như hoạt động chống lại vi khuẩn bằng cách tăng độ thấm màng bên ngoài, ức chế sự trao đổi chất của vi khuẩn, và ức chế các gen gắn liền với các gen kháng thuốc và sự di chuyển của vi khuẩn. Sự kết hợp này với chỉ 10% liều lượng kháng sinh dự kiến, và bạn có thể có một giải pháp tự nhiên cho AMR.
Mặc dù nhóm nghiên cứu không tin rằng dữ liệu này là cuối cùng, nhưng kết quả lại rất hứa hẹn và có thể được xác minh bằng các nghiên cứu trong tương lai. Nếu chiết xuất si-rô cây phong có hiệu quả như nghiên cứu này cho thấy, việc sử dụng nó lâu dài có thể kiểm soát sự kháng thuốc kháng sinh đang phát triển ở siêu vi khuẩn.
Người dịch: Lê Cao Ý Nhi
Tác giả: Neil C. Bhavsar, Christianna Reedy
Nguồn: Futurism
Tóm lược: Warrior Poets và Futurism Studios đang cùng hợp tác làm nên một bộ phim tài liệu khám phá cách thức khi mà trí tuệ con người...
Tóm lược: Warrior Poets và Futurism Studios đang cùng hợp tác làm nên một bộ phim tài liệu khám phá cách thức khi mà trí tuệ con người (human intelligence - HI) và trí thông minh nhân tạo (artificial intelligence - AI) cùng phát triển song hành với nhau. Bộ phim tư liệu này sẽ nghiên cứu về quy trình làm sao công nghệ hiện đại có thể nâng cao trí tuệ và giải mã sức mạnh con người.
KHÔNG HẲN LÀ KHOA HỌC VIỄN TƯỞNG
Trong vài tháng vừa qua, những chuyên gia sáng lập bật nhất thế giới đã công bố một loạt các dự án liên quan tới việc giải mã não bộ và tăng cường trí thông minh con người. Mark Zuckerberg (chủ tịch mạng xã hội Facebook) thông báo rằng anh đang tiến hành tạo nên một giao diện não bộ có thể giúp con người giao tiếp với nhau thông qua suy nghĩ của họ. Bryan Johnson - người sáng lập Kernel (dự án thần kinh học) đã đầu tư hơn 100 triệu đô la để lập trình dự án giải mã thần kinh. Cuối tuần trước, Elon Musk cuối cùng đã công bố Neuralink, một công ty chịu trách nhiệm sửa chữa các dư chấn tổn thương não bộ và tăng cường trí thông minh con người.
Kết quả là, chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới của nhân loại, một trong số đó là tiềm năng điều khiển quá trình tiến hóa của con người. Nhờ những dự án nói trên, con người trong xã hội hiện nay sẽ có nhiều khác biệt so với con người của thập kỉ trước.
Giải mã não bộ là một bước tiến quan trọng mang tầm lịch sử - Bryan Johnson
Nhằm ghi dấu giai đoạn phát triển đáng chú ý này, Warrior Poets (thành lập vào năm 2004 bởi nhà làm phim được đề cử Oscar Morgan Spurlock) và Futurism Studios đang trong quá trình xây dựng một bộ phim mới. Bộ phim được đạo diễn và sản xuất bởi Morgan Spurlock, Jeremy Chilnick và Taryn Southern.
Với tên gọi hiện tại " Dự án không tựa về trí tuệ nhân loại", bộ phim tư liệu dài này sẽ tìm hiểu và phân tích cách thức phát triển song hành giữa trí tuệ con người (HI) và trí thông minh nhân tạo (AI), cụ thể là tập trung giải thích cho vấn đề tại sao công nghệ tương lai có thể tăng cường phát triển trí thông minh con người theo những cách các thế hệ trước chưa từng dám mơ ước tới.
Spurlock phát biểu: "Hãy tưởng tượng ra một tương lai bạn có thể loại bỏ chứng trầm cảm mà không cần dùng thuốc; ngay lập tức học một ngoại ngữ, hoặc giao tiếp với những người thân yêu chỉ thông qua ý nghĩ. Mặc dù điều này nghe hơi hoang đường và có vẻ giống trong những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, nhưng có thể đó lại là tương lai không xa của chúng ta." Tất nhiên, sự phát triển như vậy sẽ đi kèm một loạt các vấn đề đạo đức và các vấn đề về lý thuyết cần được giải đáp.
THAY ĐỔI TÀI NGUYÊN QUÝ GIÁ NHẤT CỦA CHÚNG TA
Một kỷ nguyên mới mở ra cho nền sinh học, trong đó chúng ta có thể có mọi thứ,từ việc nâng cao nhận thức đến việc khôi phục lại chức năng vận động ở bệnh nhân bị liệt, khơi nguồn những nghi vấn đáng chú ý. Lấy ví dụ, nếu chúng ta có thể cải thiện tình trạng trầm cảm, bệnh Alzheimer, Parkinson, và các tình trạng khuyết tật khác, liệu khả năng để yêu thương, để đồng cảm, để gắn kết cũng sẽ được cải thiện? Nếu có thì sẽ là bao nhiêu? bao sâu? Làm thế nào để vượt qua các vấn đề liên quan đến sự bất bình đẳng giàu nghèo và đảm bảo rằng tất cả mọi người đều có thể được hưởng lợi từ việc mở rộng khả năng con người? Trong một thế giới cyborgs (sinh vật tồn tại cả hai phần sinh học và nhân tạo - người lai cơ khí), ý nghĩa của việc làm người là gì?
Bộ phim sẽ thẩm vấn và cố gắng giải đáp những câu hỏi cấp bách nhất - ghi lại sự tiến triển của AI và HI, cho khán giả một cái nhìn sâu hơn về sự tiến hoá phát triển của hai trí tuệ này, sẽ mang lại ý nghĩa gì cho nhân loại.
Không giống như một số ý kiến trái chiều từ Hollywood, với những suy luận mang đầy định kiến tiêu cực không rõ căn cứ về trí thông minh nhân tạo, bộ phim sẽ dẫn lời những chuyên gia khoa học thần kinh và kỹ thuật, cung cấp một cái nhìn trung thực về những gì các nhà nghiên cứu, nhà cải cách làm việc trong lĩnh vực này suy nghĩ về AI và tương lai của nhân loại.
Công ty Johnson, Kernel, là một trong số hàng chục nhà khoa học, nhà đạo đức, trường đại học, các tổ chức tư nhân Spurlock và nhóm của ông sẽ đồng hành xuyên suốt bộ phim. Kernel mở ra cánh cửa với hy vọng có thể thổi bùng sự quan tâm của mọi người về lĩnh vực này, làm bừng sáng toàn bộ cảnh quan neurotech, và tạo điều kiện cho mọi người có thể thảo luận công khai ý kiến cá nhân của mình.
Như Johnson đã nhấn mạnh: "Giải mã não bộ là một bước đột phá quan trọng nhất mang tính lịch sử. Trí tuệ con người là nguồn tài nguyên quý giá nhất mà chúng ta có - mọi thứ chúng ta đang là , mọi thứ chúng ta làm, và mọi thứ chúng ta sẽ trở thành, đều đến từ bộ não. "
Khán giả có thể mong đợi rằng bộ phim tài liệu hấp dẫn này sẽ sớm được 'trình làng' vào một ngày gần nhất.
Buổi phỏng vấn với Bryan Johnson đã được chỉnh sửa một cách ngắn gọn và súc tích. Johnson là nhà đầu tư của Futurism. Anh ta không làm việc trong ban biên tập của chúng tôi hoặc có bất kỳ quyền ưu đãi xem xét biên tập nào.
Như Nguyện
Theo Karla Lant, Jolene Creighton và Futurism
Tóm tắt: Unpaywall là plug-in trình duyệt web mới mang đến thông tin miễn phí cho những người có nhu cầu thực sự. Dịch vụ mở mã nguồn đa...
Tóm tắt: Unpaywall là plug-in trình duyệt web mới mang đến thông tin miễn phí cho những người có nhu cầu thực sự. Dịch vụ mở mã nguồn đang vượt lên trên hình thức truy cập truyền thống vì phương thức này giúp người dùng có thể truy cập miễn phí vào các bài báo tạp chí đã qua việc thẩm định nội dung và tất cả đều hợp pháp.
Thông tin miễn phí
Việc truy cập nội dung của các bài báo bị ngăn chặn bằng công cụ bước tường tính phí (Paywall) thật sự đã gây ra trở ngại lớn cho các đọc giả đang cố gắng tìm kiếm các thông tin nghiên cứu khoa học. Đây hẳn là điều những ai đang ủng hộ sự cho phép truy cập đều nhận thấy. Đồng thời, chính ông Richard từ thung lũng Silicon của HBO cũng cho rằng bất kỳ đọc giả nào cũng muốn có thông tin miễn phí cả. Và cuối cùng, cách thức để có được hàng loạt các bài báo nghiên cứu khoa học một cách miễn phí nhưng vẫn hoàn toàn hợp pháp đã xuất hiện.
Một trang web mở mã nguồn phi lợi nhuận là Impactstory được tài trợ bởi Quỹ Khoa học quốc gia và tổ chức Alfred P. Sloan, vừa phát triển một plug-in trình duyệt web tên là Unpaywall. Và đúng như tên gọi, công cụ này giúp đọc giả vượt qua Paywall để có thể truy cập miễn phí các bài báo nghiên cứu khoa học.
Trích từ trang web của Unpaywall :“Từ giờ trở đi, nhân loại cần được tiếp cận tất cả các kiến thức của chúng ta, và không phải trả bất kỳ chi phí nào”. “Đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu có chung suy nghĩ này, chính vì thế, họ đã đăng những bài báo của họ một cách miễn phí trên trang chủ trực tuyến hợp pháp. Chúng tôi muốn thúc đẩy việc mở rộng truy cập nội dung đến công chúng”.
Siêu hợp pháp
Không giống như hầu hết các dịch vụ dựa vào phương tiện tự động thu thập thông tin từ website (web scraping), phương pháp tiếp cận toàn bộ văn bản nghiên cứu khoa học của Unpaywall là hoàn toàn hợp pháp. Nó quét cơ sở dữ liệu của hơn 90 triệu mã nhận dạng đối tượng kỹ thuật số (DOIs) cho bản sao của bài báo mà các nhà nghiên cứu đã tải lên dù là trên các máy chủ hay trên trang web của các trường đại học. Và Unpaywall cũng hoàn toàn an toàn vì nó không yêu cầu đọc giả nhập bất kỳ thông tin cá nhân nào.
Không dừng lại ở đó, đọc giả chỉ cần cài đặt plug-in trên trình duyệt web Chrome hoặc Firefox để sử dụng dịch vụ hữu ích này. Một ký hiệu chiếc khóa nhỏ sẽ xuất hiện mỗi khi đọc giả truy cập trang đích (landing page) của bài báo. Nếu ký hiệu chuyển màu xanh tức là đọc giả có thể truy cập toàn bộ nội dung của bản sao bài báo. Nếu ký hiệu là màu vàng, bài báo đã mở quyền truy cập từ nhà xuất bản.
Một trong những người sáng lập nên Unpaywall là Jason Priem đã nói với The Chronicle of Higher Education rằng :“Chúng tôi có thể chuyển một bản sao truy cập mở đến người dùng nhiều hơn một nửa thời gian”. Ông rất phấn khích khi dịch vụ này đánh trúng sự quan tâm của công chúng
Một dịch vụ như của Unpaywall có thể giúp chống lại vấn đề “ngập lụt” trong tin tức giả hoặc thông tin chưa được xác minh. Đây là một công cụ kiểm tra sự thật mà bất cứ ai có kết nối internet và các trình duyệt web thích hợp đều có thể truy cập. Thật vậy, điều duy nhất tồi tệ hơn việc không có được thông tin chỉ có thể là việc nhận được thông tin sai.
Hướng dẫn cài đặt:
Vào extension( phần mở rộng) của trình duyệt Chrome hoặc Firefox rồi search chữ Unpaywall, rồi cài plug-in này vào nhé.
Ví dụ cho trình duyệt Chrome
Vào extension của Chrome rồi search "unpaywall"
Khi mở bài báo sẽ thấy dấu khoá xanh, bấm vào để tải bài báo về.
Huỳnh Thanh Thảo
Nguồn: ScienceAlert và Futurism.
Sự phức tạp trên một con chip Nhà sinh vật học nghiên cứu về sinh sản Teresa Woodruff của Đại học Northwestern đã đặt ra cụm từ ...
Nhà sinh vật học nghiên cứu về sinh sản Teresa Woodruff của Đại học Northwestern đã đặt ra cụm từ "oncofertility" hơn mười năm trước để giúp các bệnh nhân ung thư trẻ vẫn giữ được khả năng làm cha mẹ. Công việc của cô bị cản trở bởi việc thiếu các mô hình hoàn thiện của hệ thống sinh sản phụ nữ trong quá trình nghiên cứu và thử nghiệm phản ứng với thuốc, do vậy Woodruff đã tự mình tạo ra một mô hình. Năm năm sau, cô đã thành công: vào ngày 28 tháng 3, nhóm nghiên cứu đã công bố sự ra đời của “Evatar”, một mô hình sinh sản nữ thu nhỏ được làm bằng mô người và chuột. Nó tiết ra hooc môn theo chu kỳ 28 ngày, và nằm vừa trong lòng bàn tay của bạn.
Biochip này không giống với các mô hình minh hoạ của ống dẫn trứng và mô hồng mà bạn đã nhìn thấy; thay vào đó là các giếng nhựa hình kim cương và lập phương chứa chất lỏng màu xanh của hệ thống. Các khoang giếng nhỏ này chứa các bộ phận nhỏ như: buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, cổ tử cung và gan. Các giếng được gắn chặt vào tấm kim loại và được kết nối với máy tính để điều khiển dòng chảy của chất lỏng giữa các bộ phận. Nhóm nghiên cứu có thể sử dụng lá gan có sẵn, còn các bộ phận nhỏ khác được thiết kế cho hệ thống. Buồng trứng được làm từ mô của chuột, và các bộ phận nhỏ khác được tạo ra từ các mô của người hiến tặng.
Các thành viên nhóm nghiên cứu có thể lấy mẫu để đo lượng hoocmon như progesterone và estrogen khi chúng chảy qua hệ thống. Thiết bị này là duy nhất vì nó cho phép các nhà nghiên cứu theo dõi và mô hình hóa hồ sơ của toàn bộ hệ thống sinh sản trong cùng một lúc. Nhóm nghiên cứu đã dành hai năm để làm việc với các mô và kích thích các mô phát triển trước khi đưa chúng vào hệ thống chất lỏng vi mô.
Evatar- Via Northwestern University
Phát hiện các bệnh ở phụ nữ
Evatar, giống như những hệ thống của các bộ phận trên con chip khác, nó có tiềm năng cách mạng hóa trong việc thử nghiệm thuốc. Đây là lý do tại sao chính phủ Hoa Kỳ đã đầu tư hơn 100 triệu USD vào công nghệ trong năm năm qua. Tuy nhiên, đây là hệ thống mô hình chu kỳ sinh đẻ và kinh nguyệt đầu tiên. Đây là chìa khóa, bởi vì vẫn còn rất nhiều sự thiếu hụt về kiến thức liên quan đến tử cung.
Rõ ràng, có những vấn đề đạo đức nhằm ngăn ngừa phụ nữ mang thai tham gia vào việc nghiên cứu về các loại thuốc mới, và các công ty dược phẩm trong lịch sử vẫn lỏng lẻo trong việc thử nghiệm các loại thuốc mới ở động vật, tế bào và con người ở cả hai giới. Trên thực tế, đây là một vấn đề đã được thừa nhận rộng rãi nhưng phần lớn không được giải thích trong nhiều thập kỷ. Vì những lý do này, các nhà khoa học vẫn không biết nhiều về hệ thống nội tiết của phụ nữ (và cơ thể nói chung) tương tác với thuốc như thế nào. Sự thiếu hụt thông tin này giải thích một phần lý do tại sao các phương pháp điều trị tốt cho các bệnh như ung thư cổ tử cung, buồng trứng và tử cung, cũng như u xơ và nội mạc tử cung - có ảnh hưởng đến 15% phụ nữ Mỹ - vẫn còn thiếu.
Một vài công ty dược phẩm đã tiếp cận phòng thí nghiệm về việc sử dụng công nghệ, và điều này đã khiến nhóm của Woodruff suy nghĩ về việc kết hợp các bộ phận vi mô khác với mô hình kinh nguyệt của họ trong tương lai. Các mô hình kết hợp sẽ cho phép họ kiểm tra thực tế hơn về cách thức thuốc ảnh hưởng đến các cơ quan với lớp phủ hormon luôn hiện diện. "Chúng tôi đã thay thế sự phức tạp của chức năng sinh lý con người", Woodruff nói. "Chúng tôi nghĩ rằng điều này sẽ thay đổi triệt để cách chúng tôi nghiên cứu rất nhiều về hệ thống con người, không chỉ là hệ thống sinh sản nữ."
Hiếu Minh
Theo WIRED, Nature, The Guardian, Brigham and Women's Hospital và Futurism
Tóm tắt: Steve đã thay đổi diện mạo của nền công nghiệp máy tính cũng như smartphone với công ty Apple, nền điện ảnh cũng ảnh hướng kh...
Tóm tắt: Steve đã thay đổi diện mạo của nền công nghiệp máy tính cũng như smartphone với công ty Apple, nền điện ảnh cũng ảnh hướng không kém bởi công nghệ dựng phim và kỹ thuật 3D của Pixar. Câu chuyện đồ chơi đã mang lại cho Pixar chiến thắng đầu tiên trước khi cty phát hành cổ phiếu ra trước công chúng, khiến Steve trở thành tỷ phú khi nắm giữ 80% cổ phiếu. Còn nền công nghiệp âm nhạc thì sao? Itune rõ ràng là một cuộc cách mạng trong nền âm nhạc kỹ thuật số. Điện toán đám mây, Steve có Icloud; lúc này Dropbox, Googledrive còn chưa định hình.
Bài viết sau là kết quả của 2 năm từ những lượm lặt từ các bài báo, sách vở tôi đọc về Steve. Hy vọng có thể giúp những người khác đã, đang và có ý định xây dựng doanh nghiệp, tiếp tinh thần "khởi nghiệp" không ngừng nghỉ của Steve. Tinh thần khởi nghiệp rất quan trọng, thậm chí cực kỳ quan trọng ở những công ty đã định hình và phát triển.
Steve với bản tính nóng nảy, bốc đồng bị đá văng ra khỏi Apple bởi chính người mà anh tuyển dụng vào vị trí CEO, John Sculley. Steve ra đi trong đau đớn, rồi anh phục thù bằng cách sáng lập 1 cty mới, NeXT. Tuy nhiên, NeXT không thành công mấy, số lượng máy tính bán ra it ỏi. Doanh thu chủ yếu đến từ hệ điều hành Nextstep và WebOjects, công cụ phục vụ cho các website thương mại. Apple cũng không mấy sáng sủa khi được điều hành bởi Sculley, theo chiến lược "thị trường định hướng". Điều này hoàn toàn trái ngược với phong cách của Steve. Các CEO tiếp nhiệm kỳ của Sculley là Spindler, Amelio; biến Apple trở thành một mớ bòng bong. Doanh số giảm sút thảm hại. Steve lặng lẽ quan sát cảnh cùng cực của Apple, Steve yêu Apple như mối tính đầu không thể xa cách. Thật đau xót khi chứng kiến cảnh người yêu tìu tuỵ. Steve đã quay lại Apple bằng cách để Apple mua lại Next với giá 429 triệu đô. Steve quay trở lại Apple với vị trí cố vấn đặc biệt cho Amelio.
Logo của NeXT computer
Pixar- thành công rực rỡ đầu tiên với "Câu chuyện đồ chơi"
Đánh dấu sự trở lại của Steve bằng màn giới thiệu của Amelio. Amelio dường như trở nên vụng về và mờ nhạt trong bài phát biểu, nhường lại ánh hào quang cho Steve. Sau một hồi lèo lái công ty theo chiều hướng tồi tệ thì Amelio cũng bị sa thải. Steve cân nhắc trở lại vị trí CEO. Anderson, lúc này là CFO Apple nhận xét Steve không phải là một kỹ sư nhưng anh có tầm nhìn, có khiếu thẩm mỹ và có khả năng liên kết các nhóm lại với nhau. Steve là linh hồn của Apple, chỉ có sự trở lại của Steve mới đem lại sức sống cho Apple. Steve muốn loại bỏ ban giám đốc cũ chỉ giữ lại Woolard. Những người khác sẽ bị loại bỏ và thay vào bởi Larry Ellison- người sáng lập Oracle, Jerry York cựu nhân viên IBM và CFO của Chrysler, Bill Campell, CEO của Intuit. Bước đi đầu tiên của Steve là thuyết phục Bill Gates tiếp tục cung cấp các ứng dụng phần mềm kinh điển như Excel, Word cho Macbook, và đương nhiên là sẽ thành công. Lý do sự trở lại của Steve, vì anh ấy là một nghệ sỹ, cũng như Bob Dylan( thần tượng của Steve), ông ấy không bao giờ dừng lại. Chừng nào còn tiếp tục mạo hiểm với thất bại thì họ sẽ mãi là nghệ sĩ.
Doanh thu Apple lúc này giảm bởi công nghệ đã lỗi thời, không sáng tạo, giá đắt và ngày càng không phù hợp với nhu cầu người sử dụng. Tim Cook, CEO hiện thời(2017) của hãng cũng chẳng mấy khá hơn là Sculley hay Amelio. Các sản phẩm của Apple ngày càng trở nên mất đột phá, sáng tạo và để đối thủ khác dần qua mặt như Samsung.
Chiến dịch marketing " tư duy khác biệt" đánh dấu trở lại của Steve. Đoạn quảng cáo được mở đầu với giọng nam diễn viên Dreyfuss, cùng với màn trình diễn các bức chân dung của Einsten, Picasso, Martha Graham, Miles Davis, Frank Lloyd Wright, Amelia Earhart, Charlie Chaplin và Thomas Edison.... Những người đủ điên để thay đổi cả thế giới.
Làm việc với Steve giống như ở địa ngục vậy, bản tính nóng nảy, độc đoán, cầu toàn, tiểu tiết sẽ khiến bạn căng thẳng đến ngợp thở. Nhưng nhóm của Steve đã cùng nhau vực dậy công ty, ở một mức độ nào đó họ có sự gắn kết và ăn ý với nhau. Những cộng sự hạng A+ của Steve thực sự đã làm nên chuyện, vì Steve không cho phép sự yếu kém trong nhóm đó. Đôi lúc Steve cũng nhượng bộ, nhưng chỉ là gượng gạo hoặc giả tạo thôi. Những sản phẩm vĩ đại và đột phá trong công nghệ có văn hoá riêng sẽ được gầy dựng bởi nhóm đặc biệt hạng A+ này.
Sản phẩm khi Steve trở lại chính là iMac, hoàn toàn khác biệt so với Dell, HP hay Compaq. Số máy bán ra hơn 20 triệu máy trong vòng 12 tháng, và trở thành sản phẩm đình đám của Apple trong nhiều năm liền. Steve đã vực dậy công ty chỉ sau 3 năm. Steve cho rằng giữa phần mềm và phần cứng nên có sự hoà hợp tinh tế để đem lại trải nghiệm tuyệt vời cho người dùng. Các bạn xài Iphone có để ý là, cứ sau 1 năm thì sản phẩm của mình sẽ trở nên lỗi thời bởi những sản phẩm tiếp theo và một số tính năng trong hệ điều hành không còn hỗ trợ cho máy cũ nữa? Điều này sẽ thúc đẩy người dùng mua máy mới để trải nghiệm những cải tiến tiếp theo. Apple lúc này đã khiến cho rất nhiều người tiêu dùng trung thành với hãng, cộng đồng những tín đồ Apple.
Đầu những năm 2000, Steve bắt đầu để tới lĩnh vực âm nhạc. Lúc này có một ứng dụng ưng ý nhất được thiết kế bởi cựu kỹ sư Apple, Soundjam. Chương trình cho phép nhạc được xếp loại với các thuộc tính khác nhau. SoundJam được mua lại và tích hợp trong Itune. Itune là một thành công lớn khác đánh dấu sự trở lại của Steve, ngừoi đi vá lỗ hỏng con tàu do các CEO tiền nhiệm gây ra.
Vậy chiếc máy nghe nhạc thì sao? Lúc này những chiếc Walkman của Sony trông rất cổ lỗ, rất khó sử dụng. Thế là chiếc Ipod ra đời, quả là một quá trình gian khổ để sáng tạo ta chiếc máy, có khả năng phù hợp với Itune, thiết kế trang nhã, va dễ sử dụng.
Gian hàng điện tử cũng là một trong những yếu tố giúp thúc đẩy doanh số bán hàng tại Apple. Với sự đề xuất của Eddy Cue, người mua có thể lựa chọn và mua sắm bằng các lệnh tuỳ chỉnh. Nhưng doanh số bán hàng trực tuyến cũng chưa lắp đầy tham vọng của Steve, Ron Jonhson là phó chủ tịch tại Target được Steve tuyển mộ để giúp sức trong chuỗi cửa hàng bán lẻ tại Apple. Vì chỉ có tại của hàng Apple mới truyền tải ý nghĩa sản phẩm từ cách bán hàng, cách bài trí sản phẩm cho đến dịch vụ khách hàng. Steve là mẫu người thích kiểm soát, anh thích mọi thứ nằm trong tầm tay. Những nhà phân phối trước đây như Cuircuit City và CompUSA làm việc rất ù lì.
Itune- một diện mạo mới của nền công nghiệp âm nhạc
Ron Jonhson, người đã được Steve giao toàn quyền về các thiết kế cửa hàng, kênh phân phối bán lẻ riêng của hãng và các cửa hàng trực tuyến trên Itune. Steve muốn khách hàng thực sự "trải nghiệm" sản phẩm độc đáo và trọn vẹn . Sự trải nghiệm về sản phẩm và dịch cũng được Howard, CEO Starbucks áp dụng rất thành thục. Từ một doanh nghiệp nhỏ đã phát triển lên tầm vóc toàn cầu.
Về cơ bản, năm 2003 Steve đã làm cho Apple trở lại đầy sức sống, nhưng với tinh "khởi nghiệp" không ngừng nghỉ ấy, Steve tiếp tục dự án khác, Iphone. Ban đầu, dự án ROKR là sự kết hợp giữa điện thoại Motorola với tính năng nghe nhạc. Nhưng biệt đội phần cứng Ipod thì không thể "nhai" cái ý tưởng thô thiển ấy. Ý tưởng sơ khai xuất phát từ Greg và Bas Ording, họ đã làm ra một nguyên mẫu màn hình đa điểm rất thú vị mà sau này Ivy sẽ đề xuất cho Steve. Iphone chính là kết quả giữa sự pha trộn âm nhạc và điện thoại; thứ điện thoại thật đỉnh, vừa nhỏ,vừa mỏng và có thể kết nối được với internet. Iphone đã định nghĩa lại smartphone thời điểm bấy giờ.
Ipod- chiếc máy nghe nhạc được thiết kế tinh tế nhất thời điểm đó
Chiếc iPhone đời đầu- dòng smartphone đẹp và dễ sử dụng nhất thời điểm 2007
Steve thực sự là một gã thú vị. Steve là con nuôi trong một gia đình bình thường, cha mẹ đẻ của Steve hy vọng có thể cho con mình trong một gia đình có người tốt nghiệp đại học, và hứa sẽ cho con bà học đại học, 17 năm sau Steve học ở Đh Reed( là tên sẽ đặt cho đứa con trai đầu của Steve). Nhưng rốt cuộc anh cũng bỏ học sau 6 tháng và lưu luyến thêm 8 tháng nữa để học những môn yêu thích như chữ viết, để rồi sau này,tích hợp hợp vào các font chữ viết của máy Mac rất đẹp. Sau đó khởi nghiệp công ty Apple với Steve Wozniak ỏ tuổi 20, 10 năm sau Apple trở nên lớn mạnh từ chỗ chỉ có 2 người trong gara trở thành công ty trị giá 2 tỷ đô la, và hơn 4.000 nhân viên. Năm anh 30 tuổi thì bị sa thải bởi chính người anh tuyển vào, tiếp đó khởi nghiệp với Next, và xây dựng Pixar. Steve hẳn rất kiên cường, đánh cược một lần nữa khi quay lại Apple Vì Steve quá yêu Apple.
Một câu yêu thích của Jobs:" Hãy cứ khát khao, hãy cứ dại khờ". Hãy cứ làm những gì mà bạn yêu thích, thành công sẽ đến với bạn.
Nguyen Dang
Nguồn tham khảo: Steve Jobs: Walter Isaacson, Becoming Steve Jobs: The Evolution of a Reckless Upstart into a Visionary Leader
Tóm tắt: Các nhà khoa học đã phát triển một thiết bị chạy bằng năng lượng mặt trời có thể tách nước ngay cả từ không khí trên sa mạc. ...
Tóm tắt: Các nhà khoa học đã phát triển một thiết bị chạy bằng năng lượng mặt trời có thể tách nước ngay cả từ không khí trên sa mạc. Thiết bị này được cung cấp năng lượng thụ động từ ánh sáng và đây có thể là giải pháp cho tình trạng thiếu nước nghiêm trọng trên toàn thế giới.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có khoảng 663 triệu người thiếu nước sạch để uống, hơn 2,4 tỷ người thiếu hệ thống ống nước để có thể tiếp cận nhà vệ sinh. Báo cáo năm 2016 cho thấy tình trạng thiếu nước ảnh hưởng đến 2/3 dân số thế giới. Thiếu nước và các hậu quả chúng gây ra thì tệ như là tình trạng khí hậu nóng lên toàn cầu. Trên thực tế, Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2015 chỉ ra rằng việc thiếu nước sạch là một vấn đề sống còn toàn cầu hiện nay.
Để giải quyết vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã phát triển một thiết bị chạy bằng ánh sáng mặt trời có thể thu nước từ không khí ở các vùng sa mạc khô cằn với hy vọng rằng một ngày nào đó công nghệ này sẽ cung cấp nước sạch để uống cho những vùng nghèo nàn nhất và khô hạn nhất trên thế giới . Cơ sở của thiết bị này là một loại vật liệu mới, xốp, được gọi là MOF (metal-organic framework) có khả năng kéo một lượng lớn nước vào các lỗ của chúng. Nghiên cứu đăng trên tạp chí Science cho thấy một kilogram vật liệu này có thể “bắt” được vài lít nước mỗi ngày, thậm chí ở mức độ ẩm tiêu chuẩn 20% tại vùng khô cằn.
Bản chất hóa học và kích thước lỗ của vật liệu có thể được thay đổi để cho phép dòng chảy hoặc bắt giữ các loại phân tử khác nhau. Vật liệu này có thể liên kết với một lượng lớn các hạt nhờ diện tích bề mặt khổng lồ của nó, tỷ lệ tương đương với diện tích một sân bóng đá trên một gram vật liệu. Quá trình này hoàn toàn thụ động và không cần thêm năng lượng hay vật liệu. Không giống như các công nghệ thu nước khác, nó có thể hoạt động trong điều kiện khô cằn. Nó tương tự như máy làm ẩm, nhưng không cần cung cấp nước ban đầu để vận hành.
Vật liệu này vẫn cần được tinh chế hơn nữa, tuy nhiên, giám đốc Phòng thí nghiệm nghiên cứu thiết bị của MIT – ông Evelyn Wang, nói với MIT Technology Review rằng đây là một sản phẩm "không còn xa lắm". Các vật liệu tương tự đã được sản xuất hàng loạt bởi công ty hóa chất BASF (Đức). Hy vọng rằng, thiết bị này sẽ có thể cung cấp một nguồn nước sạch ổn định cho hàng triệu người trong tương lai không xa.
Iris Lin
Nguồn: Futurism
Tóm tắt: Lịch sử của sự sống trên vũ trụ quay lại với những tia sáng của trí tuệ tạo nên RNA đầu tiên. Như thể việc RNA và DNA hoạt độn...
Tóm tắt: Lịch sử của sự sống trên vũ trụ quay lại với những tia sáng của trí tuệ tạo nên RNA đầu tiên. Như thể việc RNA và DNA hoạt động và tiến hóa đến cuối cùng nhằm đưa bộ não con người vào thế giới, còn trí tuệ nhân tạo sẽ hoạt động và tiến hóa để đưa nhân loại lên một tầm cao mới.
Ánh sáng trí tuệ
“Trí tuệ là hành khách, ngành sinh vật học là tài xế.” - Karl Schroeder
Ngay sau khi trái đất hình thành cách đây 4,5 tỷ năm, sự sống đã xuất hiện. Mặc dù các chứng cứ rất mờ nhạt nhưng người ta cho rằng một vụ nổ năng lượng có thể đã va chạm lên một “nồi súp” nguyên tố hóa học nguyên thủy mà tại nơi đó các phân tử năng lượng kết khối lại thành RNA.
Ngay sau đó, RNA đã tiếp tục tạo ra một phiên bản ổn định hơn của chính nó mà có thể truyền chính xác hơn thông tin từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp, đây là DNA. Tuy nhiên, vì ưu điểm này, DNA đã thay thế RNA như một sự thúc đẩy của cuộc sống và sau đó RNA bị buộc phải nằm dưới sự kiểm soát của nó. Nhưng RNA vẫn ở lại hỗ trợ DNA vì chúng có khả năng truyền tải nhanh thông điệp xung quanh rất tốt.
Khả năng đặc biệt của DNA và lý do để nó vẫn tồn tại đến hiện tại chính nhờ khả năng sao chép và truyền thông tin từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp. Tất cả sự sống trên trái đất đều có thể phát hiện nguồn gốc của chúng chính nhờ lý do này.
Nhờ sự giúp đỡ của người bạn mới là Ribosome, DNA đã sử dụng các protein như một công cụ cho phép nó mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình và chạm vào thế giới. Bằng một loạt các protein khác nhau, DNA xây dựng nên các cơ thể ở mức độ tế bào, chúng hoạt động như nhà cửa và phương tiện vận chuyển cho chính DNA. Các tế bào cung cấp khả năng bảo vệ và khả năng di động tốt hơn từ đó cho phép DNA tạo ra trên một quy mô lớn.
Được bao bọc trong các tế bào, DNA đã khám phá ra nhiều hơn các cơ quan khác, những vật chất sống khác mà mỗi thứ có những đặc tính độc nhất, ví dụ như ty thể sử dụng tốt nhất trong việc tạo ra năng lượng. Chúng hấp thụ những cơ quan tế bào hữu ích này vào trong cơ thể tế bào và nhờ một loạt các cơ quan khác hiện đang sống chung với chúng, DNA có lợi thế rất lớn so với mọi thứ xung quanh, cho phép nó lan rộng nhanh hơn bất cứ vật chất gì khác trên trái đất.
(DNA bị giới hạn trong nhân tế bào và thường xuyên chỉ đạo RNA tạo ra và phân phối các protein đến các phần khác nhau của cơ thể tế bào cần protein)
Tiếp đó, DNA xây dựng các cấu trúc tinh xảo hơn bao giờ hết để tự gia cố và thử nghiệm với một số loại cơ thể tế bào khác nhau, mỗi cơ thể có sự khác nhau về cách sắp xếp và số lượng của các bộ phận. Cuối cùng, DNA đã có những thành phần cần thiết của một cơ thể tế bào đơn giản, nền tảng này cho phép DNA có bước nhảy vọt tiếp theo sau khi tìm ra làm thế nào để kết hợp nhiều hơn một tế bào với nhau, tạo ra sự sống đa bào.
Tiếp nối sự phát triển
Trong các cơ thể đa bào mới lạ, DNA vẫn tiếp tục phát triển. Trong hàng tỷ năm, DNA thử nghiệm với các bộ phận khác nhau để đưa vào các vật chất sống như tĩnh mạch, xương, mắt, phổi và các chi. Đây cũng là các công cụ mới có thể cung cấp thêm thông tin về thế giới và cải thiện khả năng di chuyển của DNA. Sản phẩm phụ của tất cả quá trình này, cùng với các quy luật của quá trình tiến hóa bằng con đường chọn lọc tự nhiên, là sự hình thành tất cả các loài động vật và thực vật sống trên hành tinh này.
Tuy nhiên, đây lại là một quá trình diễn ra chậm rãi, tẻ nhạt và vô số những sai lầm đã xảy ra theo cách gây ra sự căng thẳng và diệt vong cho hàng tỷ sinh vật phải hy sinh vì sự tiến hóa. Theo một cách tượng trưng, tất cả hi sinh sẽ có giá trị khi một ngày nào đó, DNA sẽ đạt được thành tựu vang dội của mình, đó là sự ra đời của bộ não loài người.
Trước đó, thông tin vẫn đang được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ thứ hai khiến cho bất kỳ sự thay đổi nào cũng mất rất nhiều thời gian. Sau hàng tỉ năm cố gắng tìm ra cách làm tốt hơn, DNA đã tìm ra giải pháp chính là bộ não, một công cụ cho phép sinh vật xây dựng và truyền thông tin tới các sinh vật khác trong suốt cuộc đời của nó.
Bằng sự xuất hiện mới mẻ của một loài Homo Sapiens, được ban cho một hình thức trí thông minh mới cho phép truyền tải các thông điệp phức tạp cho nhau và xây dựng các công cụ của riêng chúng. Ngày nay, những hậu duệ của giống loài này đang trên đà tạo ra một công cụ tốt hơn bao giờ hết đó được gọi là “trí tuệ nhân tạo”. Và giống như RNA tạo ra DNA và DNA tạo ra bộ não loài người, cho phép mỗi người tiếp cận những địa điểm mới và khám phá những gì mà họ không thể đạt được một cách tự nhiên, thì “trí tuệ nhân tạo” cũng cho phép con người đạt được những tiến bộ cao hơn.
Trí tuệ nhân tạo là bước tiếp theo của cuộc sống. Hy vọng rằng, giống như RNA tồn tại nhờ vào khả năng trợ giúp cho DNA, chúng ta có thể tìm ra cách thúc đẩy cho “trí tuệ nhân tạo”.
Lưu ý: Hầu hết kiến thức này đã được đơn giản hóa sự phức tạp đáng kinh ngạc của sinh học và rất nhiều bước quan trọng được bỏ qua, để rõ hơn các thông tin, đọc thêm phần này từ BBC và xem bốn phần về lịch sử của sự sống trên trái đất từ SciShow.
Huỳnh Thanh Thảo
Theo Benjamin Stecher và Futurism
Tóm Tắt: • Các chuyên gia đang tiếp tục phương pháp biến đổi các tế bào da thành các tế bào đa năng sau sau đó các tế bào đó sẽ đượ...
• Các chuyên gia đang tiếp tục phương pháp biến đổi các tế bào da thành các tế bào đa năng sau sau đó các tế bào đó sẽ được tái biệt hóa ( reprogrammed) thành các vi tế bào thần kinh đệm ( microglia cells)
• Các tế bào thần kinh này có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các bệnh thần kinh, ví dụ như Alzheimer. Nghiên cứu về chúng có thể giúp các nhà khoa học trong việc tìm kiếm những liệu pháp mới.
TỪ DA CHO ĐẾN NÃO
Não bộ là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ thể người, vì thế tổn thương đến não bộ khi bị thương hoặc do lão hóa có ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống con người. Các bệnh về thần kinh tiêu biểu hiện nay được xem như các bệnh nguy hiểm nhất và các bệnh này rất khó chữa trị. Một trong số các bệnh đó là các bệnh về Alzheimer
Thông thường, nghiên cứu về Alzheimer dựa trên các tế bào thần kinh của những con chuột. Ngày nay, các nhà thân kinh học từ University of California, Irvine ( UCI) đang tiếp tục phát triển một phương pháp có thể sử dụng các tế bào từ con người thay vì từ động vật để có thể hiểu rõ hơn về các chứng bệnh về thần kinh.
Trong nghiên cứu được đăng trên tạp chí Neuron, các nhà nghiên cứu đã tìm ra cách chuyển hóa tế bào da người thành tế bào gốc và biệt hóa chúng thành các vi tế bào thần kinh đệm (microglia cells). Kết quả cuối cùng ,các tế bào này chiếm 10 đến 15% của não bộ , bao gồm các tế bào chết và tế bào bị phá vỡ, cho thấy khả năng việc khống chế viêm nhiễm. Các vi thần kinh đệm rất quan trọng trong việc hình thành và bảo trì hệ thống thần kinh- trích lời Mathew Blurton Jones, nghiên cứu sinh từ khoa thần kinh học và nhân cách, UCI.
‘’Vi thần kinh đệm có vài trò quan trọng ở các bệnh Alzheimer và các bệnh khác thuộc hệ thống thần kinh trung ương. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh các khám phá mới về các gene rủi ro ở bệnh Alzheimer có liên quan đến biểu hiện của các vi thần kinh đệm” –Jones trình bày trỏng phỏng vấn được đăng ở UCI. “ Sử dụng các tế bào này, chúng ta có thể hiểu được bản chất sinh học của chúng và thử nghiệm các phương pháp điều trị mới”
MỘT PHƯƠNG PHÁP TÁI TẠO MỚI
Các tế bào da được hiến bởi các bệnh nhân Alzheimer ở trung tâm nghiên cứu UCI. Trước tiên các tế bào này được chuyển hóa thành tế bào đa năng ( iPS) – các tế bào của người trường thành được lập trình để biểu hiện như một phôi bào gốc ( embryonic stem cell), tạo điều kiện để chúng trở thành các dạng tế bào khác. Các tế bào iPS này sau đó được làm thử nghiệm với các yếu tố biệt hóa được thiết kế phù hợp với môi trường phát triển của các vi thần kinh đệm, và các tế bào này có thể chuyển hóa chúng thành tế bào thần kinh.
“Khám phá này cùng cấp một hướng mới trong mảng các bệnh liên quan đến con người và phát triển các liệu pháp mới” theo lời Wayne Poon- phó viện nghiên cứu UCI MIND. Các nghiên cứu sinh, đã phát triển có chủ đích “ một phương pháp tái tạo siêu hiệu quả ( high-throughput) để hiểu rõ về tác dụng của của các phản hồi miễn dịch của bệnh Alzheimer bằng cách sử dụng tế bào con người” – Edsel Abud.
Một cách khác, bằng việc sử dụng tế bào vi thần kinh đệm của con người thay vì từ chuột, các nhà nghiên cứu đã phát triển một công cụ chính xác hơn trong việc nghiên cứu các bệnh thần kinh và phát triển các hướng chữa trị có mục đích hơn. Trong trường hợp bệnh Alzheimer, họ đã nghiên cứu về các yếu tố di truyền cùng với các cộng hưởng về mặt tự nhiên giữa bệnh lý và tế bào vi thần kinh đệm được biệt hóa. “ Các nghiên cứu chuyển đổi này sẽ giúp cho các phương pháp điều trị tốt hơn” –Abud
Ngoài ra, họ đang sử dụng các tế bào vi thần kinh đệm biệt hóa này trong việc lập trình não 3D. Với mục đích hiểu rõ hơn về cộng hưởng giữa các tế bào vi thần kinh đệm và các tế bào thần kinh khác, và cơ chế các tế bào này trong sự phát triển của bệnh Alzheimer và các bệnh thần kinh khác.
Những điều này đã có thể trở thành hiện thực bằng việc tái biệt hóa tế bào gốc. Nghiên cứu này là một ví dụ khác cho sự thay đổi trong y dược bởi tế bào gốc.
Tuyền Dương
Nguồn: Newswise, Nueron
Dom Galeon
Tóm tắt: Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nước có tính axit do biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh vật biển. Trừ k...
Tóm tắt:
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nước có tính axit do biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến các sinh vật biển. Trừ khi có hành động mạnh mẽ, nếu không các tác động ấy sẽ dẫn đến hậu quả thảm khốc mà mọi người trên thế giới phải gánh chịu.
Hệ lụy của của nó:
Dường như mỗi ngày, những bằng chứng mới về mức độ tàn phá của khí hậu trên hành tinh của chúng ra ngày càng rõ ràng hơn. Mới đây, những hình ảnh các sinh vật bị phân hủy ngay trước mắt chúng ta như một lời cảnh tỉnh khiến mọi người hoảng sợ.
Các nhà khoa học thuộc Đại học California, Davis (UC Davis) vừa công bố nghiên cứu trên tạp chí Proceedings of the Royal Society B: Các nghiên cứu sinh mô tả thêm về quá trình nghiên cứu bryozoa, một loài sinh vật không xương còn được gọi là rêu. Họ phát hiện ra rằng nó sẽ dễ tiếp xúc với axit hơn nếu bị nuôi dưỡng trong nước nóng dẫn đến phần lớn động vật bị phân hủy.
Dan Swezey tác giả chính của quá trình nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi nghỉ chỉ một lượng nhỏ hoặc giảm tỷ lệ phân hủy xuống, nhưng toàn bộ các tính năng dường như điều vô hiệu trước mắt chúng tôi”.
Vùng đất phá dưới ấy đang dần bị mài mòn
Thật không may, “nếu có” tồn tại thêm một nguyên nhân và họ chắc chắn mọi thứ sẽ tồi tệ hơn nữa. Các điều kiện được tạo ra như một phần của các nghiên cứu chính xác là bắt trước những người đã phát hiện và đang tìm một môi trường sống cho sinh vật ngoài khơi bờ biển California. Việc gia tăng lượng cacbon do đốt nhiên liệu hóa thạch điều được đại dương hấp thụ nó vô tình làm tăng độ chưa của nước biển và sinh vật như bryozoa không thể tồn tại trong những môi trường mới này.
Bryozoa không phải là sinh vật duy nhất hứng chịu tác động của biến đổi khí hậu do con người gây ra nó ảnh hưởng đến mọi nơi trên thế giới. Động vật có vú đang tuyệt chủng, những chiếc mũ băng đang tan chảy và không bao giờ đông lại, mọi người đang chết dần vì ô nhiễm môi trường. Sau ba năm liên tục phá vỡ kỷ lục, năm 2017 là năm nóng nhất trong lịch sử từng ghi chép lại, một dấu hiệu cho thấy chúng ta lại tiếp tục đi sai hướng.
Rất may, nhiều nhà lãnh đạo thế giới đã quyết định sẽ không khoanh tay đứng nhìn đất nước của họ trở nên tồi tệ hơn. Vào năm 2015, 196 quốc gia đã cam kết cắt giảm phát sinh khí thải như một phần Hiệp định Paris và các thành phố trên toàn cầu đang từng bước để đáp ứng các tiêu chuẩn mới. Các tổ chức tư nhân đang đầu tư vào một tương lai bền vững, với các công ty như Tesla quảng bá việc sử dụng các phương tiện điện và năng lượng mặt trời như một lời khẳng định rằng mọi thứ sẽ dần được cải thiện.
Mặc dù tình hình thật thảm khốc nhưng vẫn chưa quá muộn để sửa chữa lại những thiệt hại mà chúng tôi đã gây ra. Chúng tôi nợ thế giới này không chỉ là một thế hệ trong tương lai mà còn đối với nhiều sinh vật có cùng hành tinh với chúng tôi ngay lúc này.
Huyền Trang
Theo New Atlas, United Nations và Futurism
TÓM TẮT: Một phương pháp điều trị có tiềm năng mới đối với bệnh ung thư sử dụng các hạt nano phân huỷ sinh học cho phép các bác sĩ lập...
TÓM TẮT:
Một phương pháp điều trị có tiềm năng mới đối với bệnh ung thư sử dụng các hạt nano phân huỷ sinh học cho phép các bác sĩ lập trình lại các tế bào miễn dịch trong khi chúng vẫn còn trong cơ thể bệnh nhân. Các nhà khoa học đã thử nghiệm phương pháp điều trị này trên những con chuột bị bệnh bạch cầu và được ghi nhận rằng chúng đã sống thêm 58 ngày khi so sánh với những con chuột được điều trị bằng phương pháp hiện tại.
VUA CỦA TẤT CẢ CÁC LOẠI BỆNH
Ung thư là khi có một sự thay đổi bất thường trong tế bào dẫn đến sự phân chia tế bào một cách vô tổ chức, làm cho tế bào tăng trưởng bất bình thường và có thể lây sang các cơ quan khác của cơ thể nếu không được điều trị. Ung thư là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai trên toàn thế giới, trong năm 2015 cứ sáu ca tử vong thì có một ca mắc bệnh ung thư, dẫn đến 8.8 triệu ca tử vong.
Vì các đột biến khác nhau có thể gây ra ung thư và các tế bào ung thư có thể phát triển ở nhiều nơi khác nhau của cơ thể, các bác sĩ liên tục tìm ra các chiến lược khác nhau để điều trị bệnh. Với mỗi năm trôi qua, các nghiên cứu về chủ đề này tiếp tục phát triển. Từ vắcxin cá nhân đến mecha-suit sperm, chúng tôi đã tìm kiếm khắp nơi với hy vọng tìm ra một liệu pháp hiệu quả có thể làm việc tốt hơn những gì chúng ta có hiện nay.
Hiện nay, chúng tôi sử dụng một loạt các phương pháp điều trị ung thư, bao gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa trị liệu, liệu pháp miễn dịch, liệu pháp nhắm đúng mục tiêu, liệu pháp hoóc môn, ghép tế bào gốc và thuốc cá nhân. Trong khi một số bệnh nhân ung thư chỉ nhận được một phương pháp điều trị, các phương pháp điều trị này thường được sử dụng kết hợp để tăng tỷ lệ thành công.
Trong những năm 1960, những nỗ lực của chúng tôi trong việc khắc phục bệnh ung thư đã tiến bộ đáng kể. Các bệnh nhân ngày xưa, tỷ lệ sống sót trong vòng 5 năm chỉ khoảng 50%. Với sự ra đời của những liệu pháp mới này, một số loại ung thư phổ biến ở Mỹ có tỷ lệ sống sót trong vòng 5 năm ở khoảng 75%.
Nhiều người hy vọng rằng những con số này sẽ sớm được cải thiện, các nghiên cứu kết luận rằng, tất cả phương pháp điều trị ung thư mới có thể làm các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, ít nhất 25 đến 50% sẽ cải thiện liệu pháp hiện tại. Trên thực tế, đây có thể là trường hợp cho một phương pháp điều trị ung thư tiềm năng mới sử dụng các hạt nano.
PHƯƠNG THUỐC GIẢI CỨU VỚI CÁC HẠT NANO
Bước tiếp theo trong việc điều trị ung thư, chúng ta có thể bình tĩnh chờ đợi sự tỏa sáng ở Seattle, Washington, tại trung tâm nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson, nơi các nhà khoa học đã chế tạo các hạt nano phân hủy sinh học có thể lập trình về mặt di truyền các tế bào miễn dịch khi ở trong cơ thể để nhắm mục tiêu đến các tế bào ung thư. Nghiên cứu được công bố vào ngày 17 tháng 4 trên tạp chí Nature Nanotechnology và tập trung vào hiệu quả mà các hạt nano được lập trình giống tế bào miễn dịch có trên bệnh bạch cầu ở chuột.
Các hạt nano mang các gen mã hóa cho thể kháng nguyên khảm (CARS), là các protein được các nhà khoa học thiết kế để giúp các tế bào miễn dịch nhắm đúng mục tiêu và tiêu diệt ung thư. Một khi các tế bào miễn dịch trải qua sự biến đổi phân tử này, chúng biến thành một đội quân tiêu diệt ung thư hàng loạt.
Điều trị ung thư bằng các hạt nano
Phương pháp mới này có thể loại bỏ các bước tốn kém và mất nhiều thời gian và làm chậm các liệu pháp ung thư tế bào T trước đây. Các giao thức hiện tại là các tế bào T được lấy ra khỏi bệnh nhân, biến đổi gen, tái sinh trưởng, và truyền trở lại vào bệnh nhân. Các hạt nano phân huỷ sinh học sẽ loại bỏ các bước như tách rời, tái sinh trưởng và truyền trở lại bằng cách hoàn thành bước lập trình lại trong khoảng thời gian 24 đến 48 giờ trong khi các tế bào T vẫn nằm trong cơ thể.
Khi các nhà nghiên cứu so sánh phương pháp dựa trên các hạt nano này với các phương pháp miễn dịch hiện nay đòi hỏi phải loại bỏ các tế bào T, các nhà nghiên cứu nhận thấy những con chuột bị bệnh bạch cầu sống thêm 58 ngày khi so sánh với những con chuột được điều trị bằng phương pháp hiện tại.
Mặc dù những kết quả này rất thú vị, các nhà nghiên cứu đang tìm cách làm cho quá trình an toàn hơn trước khi họ chuyển sang thử nghiệm trên người. Nhưng nếu kỹ thuật mới này được chấp nhận cho người, nó có thể có nhiều ứng dụng hơn. Các nhà khoa học đang tìm cách làm phương pháp này thích nghi với các bệnh như viêm gan, HIV, hoặc thậm chí những khối u rắn.
Bằng cách nhanh chóng trang bị các tế bào miễn dịch cho bệnh nhân để chống lại bệnh tật, phương pháp điều trị mới này có thể làm giảm chi phí chăm sóc sức khoẻ và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Người dịch: Lê Cao Ý Nhi
Tác giả: Neil C. Bhavsar, Christianna Reedy
Theo Eurekalert, World Health Organization, National Institute of Health, PubMed và Futurism
Tóm tắt: Hai nhà nghiên cứu sinh hóa đã khám phá ra mối liên hệ giữa một protein gọi là carbonic anhydrase và sự lão hóa từ các tế bà...
Tóm tắt: Hai nhà nghiên cứu sinh hóa đã khám phá ra mối liên hệ giữa một protein gọi là carbonic anhydrase và sự lão hóa từ các tế bào não và cơ của chuột.
Mặc dù vẫn còn trong giai đoạn khởi đầu nhưng nghiên cứu của họ có thể đưa ra liệu pháp điều trị cho các bệnh như Alzheimer và Parkinson.
Một protein mạnh
Theo một nghiên cứu mới của hai nhà sinh hóa trường Đại học Nottingham, ngoài việc là "nhà máy năng lượng của tế bào", ti thể có thể có một loại protein nhất định chịu trách nhiệm về sự lão hóa của cơ thể.
Tiến sĩ Lisa Chakrabarti và nghiên cứu sinh Amelia Pollard đã kiểm tra các tế bào não và cơ ở chuột "trẻ" (con) và chuột già hơn, kết quả ghi nhận được một hàm lượng cao của loại protein gọi là cacbonic anhydrase ở các con chuột già hơn.
Một hàm lượng cao cabonic anhydrase cũng được "phản ánh" (ghi nhận) trong các mẫu của não trẻ sớm bị thoái hóa, cho thấy sự tăng hàm lượng protein này có liên quan đến quá trình lão hóa.
Để tiếp tục kiểm tra giả thuyết này, nhà khoa học đã nuôi carbonic anhydrase trong giun tròn nhỏ và phát hiện tuổi thọ của chúng bị rút ngắn.
“Đầu mối” cho các nghiên cứu tiếp theo
Carbonic anhydrase giúp chúng ta mở ra các phương pháp điều trị để làm chậm quá trình lão hóa nói chung và giảm nhẹ các bệnh thoái hóa thần kinh như Alzheimer và Parkinson.
Chakrabarti cho biết: " Đây là một khởi đầu rất hứa hẹn giúp chúng ta hướng đến protein này trong ti thể, làm giảm các ảnh hưởng của lão hóa trong cơ thể, đồng thời hạn chế các phản ứng phụ không mong muốn khác. Điều này đem đến một liệu pháp mới trong giải quyết các bệnh thoái hóa và những ảnh hưởng chung của tuổi tác đến cơ thể."
Mặc dù Chakrabarti và Pollard đưa ra công bố đầy hứa hẹn này, nhưng chúng ta vẫn còn khá lâu để hiểu đầy đủ và rõ ràng các nguyên nhân gây thoái hóa tế bào. Có một “bước nhảy lớn từ chuột sang người” (khác biệt lớn giữa chuột và người), vì vậy cần kiểm tra thêm trước khi nghiên cứu của họ có thể được áp dụng trên người.
Trâm Anh
Tài liệu tham khảo: The Sun, The University of Nottingham
Tác giả: Jess Vilvestre
Biên tập: Kristin Houser
Tóm lược: Các nhà khoa học vừa phát hiện ra một loại ấu trùng sâu có khả năng ăn những chất nhựa polyethylene và phân huỷ sinh học chú...
Tóm lược: Các nhà khoa học vừa phát hiện ra một loại ấu trùng sâu có khả năng ăn những chất nhựa polyethylene và phân huỷ sinh học chúng. Nếu có thể xác định cách thức hoạt động của quy trình phân huỷ trên, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra một giải pháp xử lí mang tầm quy mô công nghiệp cho vấn đề quản lý chất thải nhựa.
SÂU BƯỚM VS NHỰA PLASTIC
Các nhà khoa học vừa phát hiện một loại sâu sáp có thể ăn và phân huỷ tự nhiên polyethylene, nhựa dẻo thô, một loại nhựa dẻo plastic được sử dụng phổ biến để làm các túi mua sắm đang chất chồng hàng đống và bốc mùi tại các bãi phân huỷ. Đây là một khám phá hết sức kì diệu và bất ngờ.Trong một lần tìm cách loại bỏ các ký sinh trùng khó chịu từ tổ ong của mình,một người nuôi ong nghiệp dư đã vô tình để những con sâu chui vào túi mua sắm, và phát hiện ra cách ăn đặc biệt của chúng.
May mắn thay, người nuôi ong nghiệp dư này lại là một chuyên gia khoa học: Federica Bertocchini thuộc Viện Y sinh và Công nghệ sinh học (Institute of Biomedicine and Biotechnology of Cantabria) ở Tây Ban Nha.
Bertocchini cùng hợp tác với các đồng nghiệp Christopher Howe và Paolo Bombelli từ Khoa Hoá sinh,Đại học Cambridge để thực hiện một thí nghiệm theo thời gian dựa trên những quan sát của bà. Họ đã để gần 100 con sâu sáp vào một túi mua sắm nhựa. Sau 40 phút, các lỗ nhỏ bắt đầu xuất hiện quanh cái túi, và 12 tiếng sau đó, 92mg khối lượng nhựa đã giảm xuống so với khối lượng túi ban đầu.
Mặc dù khá bất ngờ,song điều này không hẳn quá đáng ngạc nhiên, bởi lẽ thành phần của chiếc túi này không khác biệt nhiều so với nguồn thức ăn tự nhiên của sâu sáp, sáp ong. Bertocchini cho biết: " Sáp ong là một loại polymer, một dạng 'nhựa có thành phần tự nhiên', và có cấu trúc hóa học khá giống với polyethylene."
Nhựa plastic vs. Wax
Thông qua phân tích quang phổ, các nhà khoa học đã chứng minh được rằng các liên kết hóa học trong nhựa bị phá vỡ. Họ quan sát các phân tử "monomer" không liên kết, kết quả từ quá trình những con sâu sáp này phân hủy polyethylene thành ethylene glycol. Quá trình này khác với hoạt động 'nhai' của chúng, bởi vì các vết xén mờ của những con sâu hết hợp gây ra trên chiếc túi cũng có ảnh hưởng tương tự.
Theo Bombelli, nếu có một loại enzyme đặc trưng chịu trách nhiệm cho quy trình hóa học này, thì việc sản sinh loại enzyme này trên quy mô lớn bằng các phương pháp công nghệ sinh học nên được tiến hành.
Ô NHIỄM RÁC THẢI NHỰA
So với những phát hiện gần đây, tỷ lệ thoái biến của sâu diễn ra rất nhanh. Lấy ví dụ, vào năm 2016, một loại vi khuẩn tên PET có khả năng phân hủy sinh học một số chất dẻo, nhưng tốc độ phân huỷ chỉ được 0.13mg /ngày.
Một năm,con người tạo ra gần 78 triệu tấn nhựa chỉ riêng xét về sản xuất bao bì,túi nylon, và 32% trong số đó bị thải ra các sông hồ trên khắp hành tinh - cứ mỗi phút sẽ có một chiếc xe tải rác nhựa được thải ra. Cốc nhựa, túi nhựa, dao kéo nhựa đã bị cấm ở Delhi, Ấn Độ và định luật đó sẽ được áp dụng ở Pháp từ năm 2020. Gần 75% các bãi biển ở Anh bị bao phủ bởi các hạt "nurdle", loại hạt nhựa nhỏ được sử dụng trong công nghiệp để sản xuất ra các vật dụng nhựa lớn hơn. Các hạt này rất có hại cho môi trường sinh thái,cho động vật hoang dã, vì khi bị phân huỷ, nó sẽ thải ra các chất độc.
Gần 269,000 tấn nhựa rải rác khắp các đại dương. Và trên thế giới có khoảng 5,25 nghìn tỷ những miếng nhựa như thế đang phá huỷ trầm trọng hệ sinh thái của con người và các sinh vật khác.Trên thực tế,các chuyên gia ước tính rằng đến năm 2050, các đại dương trên thế giới sẽ có nhiều chất dẻo hơn cả cá. Polyethylene đặc biệt được sử dụng trong việc sản xuất bao bì,có nghĩa là hầu như tất cả các loại rác thải này đều bị chôn ở các bãi chôn rác thải. Khoảng một nghìn tỷ túi nhựa được sử dụng mỗi năm khắp toàn cầu.
Trong khi nhóm nghiên cứu tìm hiểu sâu sáp để làm sáng tỏ các chi tiết phân tử của quá trình phân hủy sinh học, họ hy vọng có thể đưa ra một giải pháp công nghệ sinh học quy mô công nghiệp lớn,nhằm giải quyết và quản lý vấn đề chất thải nhựa. Mặt khác, nếu nhu cầu sử dụng nhựa giảm đi sẽ dẫn đến ít rác thải nhựa hơn. Chúng ta cần tìm thêm nhiều giải pháp tốt hơn về vấn đề đóng gói bao bì,cũng như làm một người tiêu dùng thông minh trong việc lựa chọn sử dụng các vật dụng hằng ngày.
Như Nguyện
Theo University of Cambridge, Ars Technica, Cell và Futurism
Tóm tắt: Với Công nghệ mới cho phép chuyển đổi những từ ngữ được tiếp nhận chính xác đến đáng kinh ngạc bằng cách đọc sóng não của ngườ...
Tóm tắt:
Với Công nghệ mới cho phép chuyển đổi những từ ngữ được tiếp nhận chính xác đến đáng kinh ngạc bằng cách đọc sóng não của người sử dụng. Các nhà phát triển cho biết rằng họ có thể chế tạo ra một thiết bị để kết nối với chiếc điện thoại thông minh qua một ứng dụng mà họ nghiên cứu trong năm năm.
Quy trình nghiên cứu:
Một hệ thống mới được phát triển bởi nhóm các nhà nghiên cứu từ Đại học Công nghệ Toyohashi của Nhật Bản có thể đọc tâm trí của người sử dụng qua sóng não của họ.
Để kiểm chứng lại công nghệ đó, những người tham gia nghiên cứu về hệ thống được yêu cầu phải nói to và sử dụng một robot để đoán những gì họ nói trong thời gian thực hiện, dựa trên các bài viết về quét não bằng điện não đồ (EEG). Thiết bị này có tỷ lệ chính xác đến 90% trong việc nhận ra các con số từ 0 đến 9 và có tỷ lệ chính xác 61% cho việc giải mã các âm đơn ở Nhật.
Đại học Công nghệ Toyohashi công bố một số thông tin với báo chí, “Cho đến bây giờ, giải mã lời nói từ tính hiệu EEG đã gặp khó khăn trong việc thu thập dữ liệu để cho phép sử dụng các thuật toán mạnh mẽ dựa trên “những bài học chuyên môn” hoặc các loại máy móc khác”. “Nhóm nghiên cứu đã phát triển một phương thức nghiên cứu khác có thể đạt được hiệu suất cao với một bộ dữ liệu nhỏ được đào tạo”.
Giao diện não – Máy tính
Mặc dù thiết bị chỉ mang lại một phần hiệu quả, nhóm nghiên cứu vẫn lạc quan về những kết quả mà họ đang hướng đến để phát triển một giao diện não-máy tính có thể chuyển các suy nghĩ thành lời nói có thể nghe được. Cuối cùng, họ hi vọng sẽ tích hợp công nghệ này với một ứng dụng trên điện thoại thông minh , mà họ biết rằng mọi thứ sẽ sẵn sàng trong năm năm tới.
Công nghệ này sẽ không còn là lý thuyết, nó còn có khả năng trợ giúp những người khuyết tật bị mất khả năng nói chuyện có thể giao tiếp bình thường như mọi người, kể cả những người bị liệt do các tình trạng về thần kinh khác nhau như ALS, đột quỵ, hoặc chấn thương dây tủy sống. Mặc dù với công nghệ hiện tại có thể dựa vào khả năng di chuyển ngón tay hoặc mắt của người sử dụng để phát âm ra từ ngữ, nhưng công nghệ này sẽ giúp họ bỏ qua mọi hoạt động đó nhưng lại có thể truyền đạt suy nghĩ nhanh hơn với những người xung quanh.
Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Công nghệ Toyohashi cùng với những cố gắng hỗ trợ của Facebook, cũng như Elon Musk, người vừa tiết lộ về dự án mới của mình, Neuralink, sẽ phát triển một giao diện máy tính có thể được cấy ghép vào não để cải thiện trí thông minh của con người.
Huyền Trang
Theo The Independent, Toyohashi University of Technology và Futurism
Tóm tắt: Các nhà khoa học đang phát triển những vật liệu linh hoạt dùng để in 3D mạch máu và trị bệnh cho những trẻ bị dị tật mạch máu....
Tóm tắt: Các nhà khoa học đang phát triển những vật liệu linh hoạt dùng để in 3D mạch máu và trị bệnh cho những trẻ bị dị tật mạch máu. Nhóm đã nhận được khoản trợ cấp 211.000$ từ NIH cho việc làm của mình.
SỰ THẦN KÌ TRONG Y HỌC: IN 3D
Kể từ khi được giới thiệu, kỹ thuật in 3D đã càn quét cả thế giới như một cơn bão. Từ việc làm ảnh hưởng ngành công nghiệp thời trang tới việc làm rung chuyển ngành xây dựng nhà cửa truyền thống, in 3D đã tạo một con đường cho chính nó chen chân vào xã hội hiện đại.
Ngay cả cộng đồng y học cũng đang phát sốt với kỹ thuật mới này, ví dụ như Viện sức khỏe quốc gia NIH ( National Institutes of Health) đã trao tặng một khoản trợ cấp nghiên cứu và phát triển trị giá 211.000$ cho một kỹ sư ở đại học Texas, Arlington để phát triển vật liệu in 3D và tạo ra mạch máu mới cho trẻ em.
Kỹ sư Yi Hong, hợp tác với Guohao Dai ở đại học Northeastern, đang đặt mục tiêu vào việc chiến đấu chống lại căn bệnh khiếm khuyết mạch máu ở trẻ em. Trẻ em khó chữa hơn người lớn nhiều vì cơ thể các bé phát triển nhanh hơn bất kì cơ quan cấy ghép nào, cũng có nghĩa là các bộ phận cấy ghép cần được thay thế liên tục bằng rất nhiều các cuộc phẫu thuật xâm lấn(1).
Về vấn đề này, bộ đôi kỹ sư sinh học (Hong và Dai) đang cố gắng tạo ra một loạt vật liệu in 3D và có thể chuyển thành mạch máu của một bệnh nhân cụ thể. Những vật liệu này có thể được trộn với tế bào người để tạo ra một vật cố định giữa các mạch máu sinh học. Độ đàn hồi của loại mạch máu này có thể cải thiện đáng kể cuộc sống của những em bé mắc bệnh khiếm khuyết mạch máu- những em bé hiện đang phải làm vô số ca phẫu thuật xâm lấn cho một bộ phận cấy ghép. Loại mạch máu in này cũng có thể làm giảm rủi ro bị chứng huyết khối mạch máu(2) so với cấy ghép truyền thống.
NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIỀM NĂNG
Có rất nhiều chứng bệnh liên quan đến bất thường trong mạch máu gây ảnh hưởng đến trẻ em. Một số ví dụ bao gồm phình mạch- những chiếc túi hình thành trên động mạch não; dị tật động tĩnh mạch- mạch máu ở não và tủy sống rất mỏng và dễ bị vỡ; và bệnh moyamoya- một chứng bệnh ngăn chặn lưu lượng máu truyền lên não vì động mạch chính bị nghẽn. Những căn bệnh này có thể gây ra triệu chứng như đau đầu, co giật và thậm chí hôn mê. Với phương pháp điều trị hiện có, việc chữa trị cho những bé mắc bệnh khiếm khuyết mạch máu còn rất khó khăn; nhưng nếu dự án của Hong có thể hoàn thành, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Hong rất có niềm tin vào dự án của mình, và nhà tài trợ từng gây quỹ đến 850.000$ cho dự án trong quá khứ của ông sẽ tiếp tục hỗ trợ cho dự án này. Phương pháp của Hong đầy tham vọng, nhưng tiềm năng thành công của ông sẽ tiếp tục củng cố vai trò của phương pháp in 3D trong y học, khuyến khích các nhà khoa học y tế khác suy nghĩ sáng tạo hơn trong lúc giúp cải thiện chất lượng cuộc sống người dân.
1: Phẫu thuật xâm lấn, còn được biết đến dưới tên gọi “phẫu thuật lỗ khóa”, là phương pháp phẫu thuật thông qua những vết mổ nhỏ. Phương pháp này hướng đến mục đích đạt được kết quả lâm sàng tương đương như khi sử dụng phương pháp phẫu thuật mổ mở thông thường, và đồng thời giảm thiểu chấn thương mô mềm – điều không thể tránh khỏi trong những kỹ thuật thông thường. 2: Huyết khối mạch máu, là sự tắc nghẽn tĩnh mạch do sự xuất hiện của những cục máu đông. Bệnh khá phổ biến ở các nước phương Tây, và khoảng 0.1% dân số thế giới mắc bệnh này.
Tác giả: Neil C. Bhavsar
Người dịch: Lê Thanh Hà
Nguồn: Futurism
Tóm tắt: Các nhà nghiên cứu vừa phát triển một cách nhằm giảm thiểu đáng kể việc suy giảm khả năng lưu thông dung lượng pin tồn tại. Đi...
Tóm tắt: Các nhà nghiên cứu vừa phát triển một cách nhằm giảm thiểu đáng kể việc suy giảm khả năng lưu thông dung lượng pin tồn tại. Điều này trở thành một lựa chọn khả thi dành cho việc lưu trữ năng lượng.
Các loại pin ưu việt hơn là một phần của tương lai cùng với sự bền vững và mở rộng tiêu thụ năng lượng tái tạo.
Pin luồng( Flow batteries)
Các nhà nghiên cứu vừa khám phá một cách giúp loại pin luồng đặc biệt này trở nên thực tế hơn. Pin luồng lưu trữ năng lượng trong bể đầy chất lỏng. Trước phát hiện gần đây nhất, sau nhiều lần sạc pin và sử dụng, pin luồng sẽ bị suy thoái nhanh chóng.
Để khắc phục nhược điểm trên, nhà nghiên cứu John A. Paulson của trường Kỹ thuật và ứng dụng khoa học (SEAS) tại Harvard đã điều chỉnh cấu trúc của các phân tử trong dung dịch để chúng có thể hòa tan được trong nước, giúp chất điện li hòa tan trong nước có độ pH trung tính. Từ đó có thể tạo ra loại pin chỉ hao tốn 1/100 năng lượng sau 1000 lần lặp lại việc sạc và sử dụng pin. Đồng thời, loại pin này có thể sử dụng trong 10 năm với chi phí bảo dưỡng giảm đến mức tối thiểu.
Không giống như các chất lỏng của các loại pin thông thường, dung dịch trong pin luồng này không phải là chất độc hại, chất ăn mòn. Khi tiếp xúc trên da hoặc sàn nhà đều không gây thương tật hoặc thiệt hại về tài sản.
Nguồn năng lượng sạch hơn tức là tiến gần hơn với việc chi phí thấp hơn
Bất kỳ sự đổi mới trong việc lưu trữ năng lượng sẽ chỉ tiếp tục giúp cho năng lượng tái tạo trở thành một nguồn năng lượng hữu ích. Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE) tuyên bố rằng việc xây dựng một loại pin với khả năng dự trữ năng lượng dưới 100 đô la cho mỗi kWh sẽ tạo ra năng lượng sạch từ các nguồn như mặt trời và gió ngang với các nhà máy điện truyền thống. Imre Gyuk của DOE cho biết, "Tôi mong đợi rằng các pin luồng hiệu quả và tuổi thọ dài sẽ trở thành tiêu chuẩn như một phần của cơ sở hạ tầng lưới điện."
Loại pin ưu việt hơn có thể là thành phần then chốt để nhận ra tiềm năng toàn diện của năng lượng tái tạo. Từ việc cho ra đời trạm hệ thống dự trữ pin (Powerpack) ở California, ta thấy được việc lưu trữ pin có thể giúp giảm bớt gánh nặng về nhu cầu sử dụng năng lượng trong thời gian cao điểm. Sự phát triển trong việc cải thiện pin sẽ giảm đi nhu cầu sử dụng các nhiên liệu hóa thạch và sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng gây hại cho môi trường.
Huỳnh Thanh Thảo
Theo EurekAlert! - Technology, Engineering and Computer Science, Harvard và Futurism
Tóm tắt: Trong buổi hội thảo diễn ra ở London được tổ chức bởi Port Technology, đại diện của công ty Hyperloop One đã thảo luận về việc...
Tóm tắt: Trong buổi hội thảo diễn ra ở London được tổ chức bởi Port Technology, đại diện của công ty Hyperloop One đã thảo luận về việc hợp tác kinh doanh với “người khổng lồ” bán hàng trực tuyến Amazon để mang dịch vụ vận chuyển hàng trong ngày đến rộng hơn trên lãnh thổ nước Mỹ.
Cập nhật:
Người đứng đầu truyền thông toàn cầu của Hyperloop One, Marcy Simon, đã tiếp xúc với Futurism để làm rõ tính chất của buổi thảo luận. Simon khẳng định rằng Nick Earle đã trình bày một cách lý thuyết trong buổi diễn thuyết, trong thời điểm ấy không có hợp tác kinh doanh chính thức giữa Amazon và Hyperloop One. Cô ấy cũng nhấn mạnh rằng Hyperloop One sẽ đăng tải bản nghiên cứu chuyên sâu với nghiên cứu của họ về Amazon, ở mục chuyên sâu về cách để Amazon có thể giảm số kho hàng của ở Mỹ từ 119 còn 18 và tăng cường hình thức vẫn chuyển hàng hóa trong ngày từ 66% dân số nước mỹ lên 80% bằng cách sử dụng công nghệ HyperLoop. Nguyên văn nghiên cứu được trình bày dưới đây.
Sớm đã có những tin tức ít ỏi về hợp tác kinh doanh giữa Hyperloop One và Amazon để hình thức vận chuyển trong ngày trở thành phần chủ yếu ở Mỹ.
Một mảng tinh không rõ ràng đã được đăng tải sáng hôm nay trong quý báo của tạp chí công nghệ Port Technology với hình ảnh Nick Earle-Phó Giam Đốc mảng Tổ Chức Quốc Tế của Hyperloop One, diễn giải cuộc đối thoại trên tạp chí Container Terminal Automation Conference được tổ chức ở London.
Trong hình ảnh đính kèm cho thấy người đại diện đứng trước bức ảnh có thể đoán như là vùng lãnh thổ mà hợp tác kinh doanh sẽ triển khai dịch vụ. Trong bức ảnh cũng đưa ra những thông tin liên quan đến việc tiết kiệm chi phí.
Cả Amazon và Hyperloop One vẫn chưa có thông báo chính thức cho việc này.
Hyperloop one đang hy vọng về một cuộc cách mạng vận chuyển đường bộ cho cả hàng hóa và con người. Công ty này đang bận rộn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho hệ thống của công nghệ hyperloop tốc độ cao trên khắp thế giới. Khi công trình này được hoành tất, nó sẽ có thể vận chuyển con người và hàng hóa ở tốc độ siêu tốc khoảng 1,000 (621 mph).
Đăc điểm ấn tượng của hệ thống không những chỉ ở tốc độ của những gói hàng. Earl đã phát biểu “ Không chỉ mỗi tốc độ- nhu cầu về nó cũng cũng là một yếu tố quan trọng- nhữn gói hàng lẻ có thể rời nơi xuất phát mỗi 20 phút 1 lần”.
Hợp tác kinh doanh với công ty lớn như Amazon là một sự ủng hộ lớn cho Hyperloop One. Hãy tiếp tục cập nhật.
Follow Us
Science knows no country, because knowledge belongs to humanity, and is the torch which illuminates the world. *Louis Pasteur*