Sự phức tạp trên một con chip
Nhà sinh vật học nghiên cứu về sinh sản Teresa Woodruff của Đại học Northwestern đã đặt ra cụm từ "oncofertility" hơn mười năm trước để giúp các bệnh nhân ung thư trẻ vẫn giữ được khả năng làm cha mẹ. Công việc của cô bị cản trở bởi việc thiếu các mô hình hoàn thiện của hệ thống sinh sản phụ nữ trong quá trình nghiên cứu và thử nghiệm phản ứng với thuốc, do vậy Woodruff đã tự mình tạo ra một mô hình. Năm năm sau, cô đã thành công: vào ngày 28 tháng 3, nhóm nghiên cứu đã công bố sự ra đời của “Evatar”, một mô hình sinh sản nữ thu nhỏ được làm bằng mô người và chuột. Nó tiết ra hooc môn theo chu kỳ 28 ngày, và nằm vừa trong lòng bàn tay của bạn.
Biochip này không giống với các mô hình minh hoạ của ống dẫn trứng và mô hồng mà bạn đã nhìn thấy; thay vào đó là các giếng nhựa hình kim cương và lập phương chứa chất lỏng màu xanh của hệ thống. Các khoang giếng nhỏ này chứa các bộ phận nhỏ như: buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, cổ tử cung và gan. Các giếng được gắn chặt vào tấm kim loại và được kết nối với máy tính để điều khiển dòng chảy của chất lỏng giữa các bộ phận. Nhóm nghiên cứu có thể sử dụng lá gan có sẵn, còn các bộ phận nhỏ khác được thiết kế cho hệ thống. Buồng trứng được làm từ mô của chuột, và các bộ phận nhỏ khác được tạo ra từ các mô của người hiến tặng.
Các thành viên nhóm nghiên cứu có thể lấy mẫu để đo lượng hoocmon như progesterone và estrogen khi chúng chảy qua hệ thống. Thiết bị này là duy nhất vì nó cho phép các nhà nghiên cứu theo dõi và mô hình hóa hồ sơ của toàn bộ hệ thống sinh sản trong cùng một lúc. Nhóm nghiên cứu đã dành hai năm để làm việc với các mô và kích thích các mô phát triển trước khi đưa chúng vào hệ thống chất lỏng vi mô.
Evatar- Via Northwestern University |
Phát hiện các bệnh ở phụ nữ
Evatar, giống như những hệ thống của các bộ phận trên con chip khác, nó có tiềm năng cách mạng hóa trong việc thử nghiệm thuốc. Đây là lý do tại sao chính phủ Hoa Kỳ đã đầu tư hơn 100 triệu USD vào công nghệ trong năm năm qua. Tuy nhiên, đây là hệ thống mô hình chu kỳ sinh đẻ và kinh nguyệt đầu tiên. Đây là chìa khóa, bởi vì vẫn còn rất nhiều sự thiếu hụt về kiến thức liên quan đến tử cung.
Rõ ràng, có những vấn đề đạo đức nhằm ngăn ngừa phụ nữ mang thai tham gia vào việc nghiên cứu về các loại thuốc mới, và các công ty dược phẩm trong lịch sử vẫn lỏng lẻo trong việc thử nghiệm các loại thuốc mới ở động vật, tế bào và con người ở cả hai giới. Trên thực tế, đây là một vấn đề đã được thừa nhận rộng rãi nhưng phần lớn không được giải thích trong nhiều thập kỷ. Vì những lý do này, các nhà khoa học vẫn không biết nhiều về hệ thống nội tiết của phụ nữ (và cơ thể nói chung) tương tác với thuốc như thế nào. Sự thiếu hụt thông tin này giải thích một phần lý do tại sao các phương pháp điều trị tốt cho các bệnh như ung thư cổ tử cung, buồng trứng và tử cung, cũng như u xơ và nội mạc tử cung - có ảnh hưởng đến 15% phụ nữ Mỹ - vẫn còn thiếu.
Một vài công ty dược phẩm đã tiếp cận phòng thí nghiệm về việc sử dụng công nghệ, và điều này đã khiến nhóm của Woodruff suy nghĩ về việc kết hợp các bộ phận vi mô khác với mô hình kinh nguyệt của họ trong tương lai. Các mô hình kết hợp sẽ cho phép họ kiểm tra thực tế hơn về cách thức thuốc ảnh hưởng đến các cơ quan với lớp phủ hormon luôn hiện diện. "Chúng tôi đã thay thế sự phức tạp của chức năng sinh lý con người", Woodruff nói. "Chúng tôi nghĩ rằng điều này sẽ thay đổi triệt để cách chúng tôi nghiên cứu rất nhiều về hệ thống con người, không chỉ là hệ thống sinh sản nữ."
Hiếu Minh
Theo WIRED, Nature, The Guardian, Brigham and Women's Hospital và Futurism
0 comment: